Thứ Hai, 8 tháng 5, 2017

Kiến con đi ô tô

Kiến con leo lên xe buýt. Kiến muốn vào rừng xanh thăm bà ngọai. Trên xe đã có dê con.Chó con, khỉ con, lợn con ngồi. Có bạn trong bọn họ vào rừng hái nấm, có bạn vào rừng chơi trốn tìm, có bạn đến dạo chơi bên hồ ở trong rừng.
>>>xem thêm : Chăm sóc em bé
                          Dinh dưỡng cho bé
           “ Bim Bim” xe chạy rồi. Tất cả cùng tiếng hát, rộn rang biết bao
            “ Bim Bim” xe dừng ở bến đón khách, một bác gấu lên xe. Bác đển rừng xanh để thăm cháu . “ Ngồi vào đâu bây giờ?” chỗ ngồi đã chật kín…
    Dê con bảo “ Bác gấu ơi! đến ngồi chỗ của cháu đi bác!”
    Chó Con bảo “ Bác Gấu ơi! đến ngồi chỗ của cháu đi bác!”
    Mọi người cùng bảo “ Bác Gấu ơi! đến ngồi chỗ của cháu đi bác!”
    Bác gấu nói “ Cám ơn các bạn, cám ơn các bạn nhỏ tốt bụng”, “ Bác ngồi chỗ của các cháu, các cháu lại phải đứng”.
    Lúc đó Kiến mới leo đến bên bác gấu, cố nhoi lên và cất giọng nói “Không, không, mời bác lại ngồi chỗ của cháu”.
    Bác gấu hỏi lại “ Thế cháu ngồi vào đâu?”
Kiến con lấp láy ánh mắt một cách hóm hỉnh. Bác gấu ngồi vào chỗ của kiến con ” Ồ!Kiến con đi đâu rùi nhỉ?”
          “Bác gấu ơi!cháu ở đây!”. Bên tai bác gấu vang lên tiếng của Kiến. Ủa, té ra Kiến con đã leo lên vai bác gấu ngồi chễm chệ trên đó.
            Trên đường đi, kiến con hát cho bác gấu nghe nhiều bài hát, những bài hát du dương quá, hay quá khiến bác gấu lim dim đôi mắt, ngẹo đầu lắng nghe.
>>>>xem thêm : Các bệnh thường gặp ở trẻ em

Thứ Sáu, 14 tháng 4, 2017

Sự tích Sọ Dừa

Truyện cổ tích Việt Nam Sọ Dừa nói về một cậu bé sinh ra đã có bộ dạng xấu xí nhưng có đức tính hiền lành tốt bụng.

Với tài năng và sự thông mình của mình cậu đã cưới được người vợ đảm sau bao nhiêu gian khổ cuối cùng kẻ xấu đã bị trừng phạt và người tốt ở hiền sẽ gặp lành. Mời các bé đọc truyện cổ tích Sọ Dừa để có bài học bổ ích nhé.

Ngày xửa ngày xưa, có một cặp vợ chồng nghèo đã đi ở cho một nhà phú ông rất giàu có từ khi còn rất trẻ. Họ rất hiền lành và chăm chỉ nhưng đã ngoài 50 tuổi rồi mà chưa có một đứa con. Một hôm, thời tiết nắng nóng khó chịu, bà vợ vào rừng nhặt củi khát khô cả cổ mà không tìm thấy một giọt nước để uống. Không chịu nổi bà đã liều mình uống chút nước ở trong cái sọ đặt ở dưới gốc cây to trong rừng. Một điều vô cùng lạ, khi uống nước ở sọ đó thì bà cảm thấy vô cùng sảng khoái và mát tận tới ruột gan. Sau đó trở về nhà bà đã có thai nhưng chỉ một thời gian sau người chồng đã qua đời. Bà hạ sinh một đứa con hết sức lạ lùng, đứa bé không có tay chân, nó tròn vo như cái sọ dừa. Bà buồn lắm toan định mang đi chông sống thì đứa bé cất tiếng gọi:

– Mẹ ơi! Con là con của mẹ. Mẹ lỡ bỏ con đi thì con tủi thân lắm!.

Bà cảm động và hối hận quyết định để lại nuôi và đặt tên con là Sọ Dừa.

Lớn lên, Sọ Dừa chỉ lăn lông lốc. Bà rất buồn lòng. Sọ Dừa thương mẹ bèn xin mẹ cho đến nhà phú ông chăn bò.

Lúc đầu phú ông còn ngần ngại nhưng sau khi suy nghĩ đã quyết định đồng ý cho Sọ Dừa ở lại làm việc.

Chẳng ngờ đâu, Sọ Dừa chăn bò rất giỏi bò con nào con lấy no căng. Phú ông càng thêm mừng.

Ngày mùa đến, tôi tớ đều bận đi làm đồng, phú ông đành sai ba cô con gái yêu quý thay nhau mang cơm cho cậu.

Một hôm đến đúng phiên cô con út mang cơm. Vừa tới chân núi, cô đã thấy một chàng trai rất tuấn tú và khôi ngô đang thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Biết Sọ Dừa không phải là người bình thường, cô út đem lòng thương chộm nhớ Sọ Dừa.

Một hôm, Sọ Dừa đến tuổi lấy vợ bèn về nhà giục mẹ đến hỏi con gái phú ông. Bà vô cùng bất ngờ với yêu cầu của con, nhưng vì Sọ Dừa năn nỉ mãi, bà đã chiều lòng.

Bà mang cau đến dạm, phú ông bĩu môi cười khẩy mỉa mai rồi thách cưới bằng rất nhiều sính lễ, nào là: một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm.

Lão phú ông chẳng ngờ, đến đúng ngày hẹn mang lễ cưới Sọ Dừa và mẹ mang đầy đủ sinh lễ làm lão hoa cả mắt bèn gọi ba cô con gái ra để hỏi ý.

Hai cô chị Cả và chị Hai bĩu môi chê bai Sọ Dừa xấu xí không xứng, chỉ có cô Út là cúi đầu e lệ tỏ ý bằng lòng.

Đến ngày hỷ sự, tiệc tùng linh đình, không ai nhìn thấy Sọ Dừa đâu cả mà chỉ thấy một chú rể tuấn tú, khôi ngô đứng cạnh cô Út.

Tất cả mọi người thấy vậy đều vô cùng vui mừng riêng chỉ có hai cô chị là đố kị và ghen tức.

Cuộc sống của hai vợ chồng rất hạnh phúc. Sợ Dừa ngày đêm dùi mài kinh sử đèn sách sau đó đã thi đỗ Trạng Nguyên.

Được vua sai đi sứ, trước khi đi chàng đã dặn dò vợ kĩ càng và đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng và dặn luôn mang theo bên mình để hộ thân.

Ghen tị với cô em, hai cô chị nảy sinh ý đồ hãm hại em để thay làm bà Trạng.

Một hôm, hai cô chị đã lừa cô Út đi chèo thuyền rồi lừa đẩy thuyền cô Út ra xa, giấu hết bơi chèo. Thuyền chìm, cô Út bị cá kình nuốt chửng.

Nhớ lời chồng dặn cô đã luôn mang theo những thứ chồng đưa cho. Nhờ có con dao của chồng cô Út đã thoát chết và dạt tới một hòn đảo. Cô dung dao rạch bụng cá chui ra. Lấy đá đánh lấy lửa nướng thịt cá để ăn dần.
Hình ảnh minh họa “Truyện cổ tích Sọ Dừa”

Hai quả trứng gà nở thành một đôi gà đẹp, một trống một mái làm bạn cùng cô. Vào một ngày đẹp trời, có chiếc thuyền lớn đi qua đảo, con gà trống nhìn thấy bèn gáy vang.

May sao chiếc thuyền đó chính là thuyền của Sọ Dừa, vợ chồng đoàn tụ mừng vui khôn tả. Sọ Dừa liền đón vợ trở về nhà.

Về tới nhà, quan trạng tổ chức tiệc linh đình, nhưng lại không để vợ ra mặt. Hai cô chị không biết là cô Út đã trở về khấp khởi mừng thầm, thay nhau kể chuyện cô Út gặp nạn tỏ ra đau xót.

Sọ Dừa không nói gì, tiệc tùng xong cậu mới gọi vợ ra. Hai cô chị nhìn thấy em Út xấu hổ quá đành bỏ ra về mà không nói một câu từ đó bỏ đi biệt xứ.

Trên đây là câu truyện cổ tích Sọ Dừa hi vọng các em khi đọc sẽ rút ra những bài học sâu sắc và bổ ích cho chính mình.

Thứ Hai, 3 tháng 4, 2017

Đôi bạn thân

Thím Vịt bận đi chợ xa đem con đến gởi bác gà mái mẹ. Gà mái mẹ gọi con ra chơi với Vịt con.
Gà con xin phép mẹ dẫn Vịt con ra vườn chơi và tìm giun để ăn. gà con nhanh nhẹn đi trước. Vịt con lạch bạch theo sau.

Thấy Vịt con chậm chạp, Gà con tỏ ra không thích lắm. Ra tới vườn, Gà con lấy hai chân bới đất tìm giun. Ngón chân của Vịt có màng không bới đất được. Vịt con cứ lạch bạch khiến đất bị nén xuống. G

à con không tài nào tìm giun được. Gà con tức quá nói với Vịt con :
-Bạn chẳng biết bới gì cả, bạn đi chỗ khác chơi để tôi bới một mình vậy.
Vịt con thấy Gà con cáo với mình cũng buồn, liền bỏ ra ao tìm tép ăn. Một con Cáo mắt xanh, đuôi dài nấp trong bụi rậm, thấy Gà con đi tìm mồi một mình định nhảy ra vồ. Gà con sợ quá vội ba chân bốn cẳng chạy ra bờ ao. Gà con vừa chạy vừa kêu : “Chiếp, chiếp, chiếp !”.

Vịt con đang lặn ngụp tìm tép, nghe tiếng bạn gọi vội lướt nhanh vào bờ kịp cõng bạn ra xa. Cáo chạy tới bờ đã thấy Gà và Vịt đang ở gần ao sâu. Chờ mãi không được, Cáo liếm mép và bỏ đi. Nhờ Vịt có đôi chân như mái chèo bơi rất nhanh mà Gà con thoát chết... Lúc này Gà con mới thấy việc mình đuổi Vịt con là không tốt, và xin lỗi bạn. Vịt con không giận mà còn mò tép cho gà con ăn.

Từ đấy mỗi khi Vịt con đến chơi. Gà con mừng tíu tít đi tìm giun cho Vịt con ăn. Gà con nhanh nhẹn đi trước, Vịt con lạch bạch theo sau. Hai bạn gà và Vịt rất quý mến nhau.

Thứ Tư, 29 tháng 3, 2017

Chuyện về chú vịt xám

Vịt mẹ dẫn Vịt con đi chơi. Trước khi đi, Vịt mẹ dặn:

- Các con phải đi theo mẹ, theo đàn, không được tách ra đi một mình mà con cáo ăn thịt đấy !

Đàn Vịt con vâng dạ rối rít.

Vừa ra khỏi cổng làng, chú Vịt Xám đã quên ngay lời mẹ dặn. Chú lẻn đi chơi một mình, lang thang hết nơi này đến nơi khác. Cuối cùng chú đến một cái ao có rất nhiều tôm cá. Đứng trên bờ nhìn xuống, chú thấy từng đàn cá, tôm bơi lội tung tăng dưới nước, thỉnh thoảng một con tôm cong mình nhảy tanh tách.

Thích quá, chú nhảy xuống mò lấy, mò để. Lúc ăn đã gần no, chú mới nhìn lên chẳng thấy Vịt mẹ đâu cả. Hoảng sơ, chú nhảy lên bờ gọi mẹ ầm ĩ : “Vít... vít... vít”. Gần đấy có một con cáo đang ngủ, nghe tiếng Vịt kêu, Cáo liền nhỏm dậy.

Nó lẩm bẩm
- Chà thịt vịt con ăn ngon lắm đấy ! Hôm nay mình sẽ được một bữa thịt vịt thật là ngon.

Nói rồi Cáo đi nhanh ra phía bờ ao. Khi Cáo vừa ra đến nơi thì cũng là lúc Vịt mẹ tìm thấy Vịt Xám. Trông thấy Cáo, Vịt mẹ vội dẫn Vịt Xám nhảy tùm xuống ao. Thế là Vịt Xám thoát chết.

Từ đấy Vịt Xám không bao giờ dám làm sai lời mẹ dặn.

Thứ Ba, 21 tháng 3, 2017

Chuyện chàng mồ côi

Mồ Côi càng lớn càng làm khoẻ. Không có ruộng vườn, ngày ngày chàng đem sức đổi lấy hai bữa ăn. Thấy chàng cần cù, và có lòng tốt, các bậc già cả, các cô con gái và các em bé đều quý mến.

Ngày xưa có một chàng thanh niên mồ côi cha mẹ từ tấm bé, được người làng nuôi cho lớn khôn. Người ta quen gọi chàng là Mồ Côi.

Mồ Côi càng lớn càng làm khoẻ. Không có ruộng vườn, ngày ngày chàng đem sức đổi lấy hai bữa ăn. Thấy chàng cần cù, và có lòng tốt, các bậc già cả, các cô con gái và các em bé đều quý mến. Những ngày mưa to gió lớn, chàng không đi làm được thì các cô gái rủ nhau đem gạo sang nhà giúp. Thấy vậy một vài chàng trai trẻ trong làng đem lòng ghen ghét. Họ tìm cách hãm hại Mồ Côi.

Một hôm, Mồ Côi bị ốm. Trai làng xúm lại đánh đến sứt mặt, mẻ trán giữa lúc chàng đang cùng một cô gái làng đi làm đồng về. Chàng bị đau nhừ cả người, nằm mấy ngày chưa lại sức.

Thấy bọn con trai ghét mình, chàng bèn chạy sang làng bên cạnh làm thuê, gánh mướn nuôi thân. Nhưng đến ở làng này chưa lâu, chàng lại bị bọn trai làng rủ nhau sang gây chuyện và đánh đập.

Mồ Côi lại phải bỏ làng này ra đi một lần nữa. Lần này chàng định đi kiếm ăn ở một nơi thật xa. Chàng đi ba ngày liền, đến một làng nhỏ ven rừng hẻo lánh. Chàng vào một nhà phú ông xin ở thuê. Phú ông thấy Mồ Côi khoẻ mạnh, nhanh nhẹn, liền nhận lời giao cho chàng công việc hái trám.

Nhưng khi nhìn rừng trám rộng mênh mông, cây nào cũng to bằng hai ba người ôm và cao thẳng vút lên trời, Mồ Côi lắc đầu, lè lưỡi. Phú ông ngon ngọt dỗ dành và hứa trả công cao. Trèo xong rừng trám, lão sẽ trả cho 500 lạng bạc. Lão còn bày cách bắc thang tre để trèo. Công việc leo trèo thật vô cùng vất vả và nguy hiểm. Nhưng vì thấy phú ông đối đãi có vẻ tốt, nên Mồ Côi không tiếc sức.

Từ đó ngày nào chàng cũng trèo thang lên ngọn cây trám, cầm sào vụt rụng từng chùm trám chín xuống đất. Phú ông cùng vợ và con gái thả sức thu lượm đưa ra chợ bán. Một tháng rưỡi trôi qua, với cây sào và cái thang, Mồ Côi leo hết cây trám này đến cây trám khác. Phú ông cũng thu về hết món bạc này đến món bạc kia.

Hôm ấy, Mồ Côi trèo đến cây trám thứ hai trăm cũng là cây trám cuối cùng. Thấy sắp phải tính công trả cho Mố Côi số bạc hơn năm trăm lạng, phú ông gọi vợ đến bàn mưu tính kế.

Sáng hôm ấy, vợ chồng phú ông dậy từ lúc gà gáy, sai con nấu cơm làm bữa mời Mồ Côi.

Cơm nước xong, Mồ Côi lại theo gia đình phú ông vác sào ra rừng trám.

Sau khi Mồ Côi đã trèo đến ngọn cây, thì ở dưới gốc, phú ông sai con rút lấy thang tre về nhà, mặc cho Mồ Côi ở trên cao kêu la ầm ĩ. Chàng cố tìm cách tụt xuống, nhưng loay hoay nửa buổi cũng không tìm ra cách gì cả. Thân trám thẳng tắp, to bằng hai người ôm, không thể bấu víu vào đâu để tụt xuống được. Thế là từ đấy, chàng phải sống trên ngọn cây trám như loài khỉ vượn. Ðói bụng, chàng phải hái quả trám ăn sống. Khát nước, chàng liếm từng giọt sương đêm đọng trên từng chiếc lá. Ðêm cũng như ngày chàng không dám ngủ say, ăn hết trám, chàng phải ăn đến lá. Ăn hết lá, chàng phải ăn đến vỏ.

Một buổi sáng, trời hửng nắng, Mồ Côi cởi chiếc áo cánh phơi lên một cành trước mặt. Giữa lúc ấy có một con gấu ngựa đi qua dưới gốc cây. Trông thấy cái áo của Mồ Côi, nó tưởng là một tổ ong, liền trèo lên định ăn mật. Gấu đến bên cái áo, mắt lim dim để tránh ong đốt vào mắt như thói quen của nó, rồi nhoài người ra ngoạm lấy cái áo cánh nhai ngấu nhai nghiến.

Thấy thế, một ý nghĩ táo bạo mới nẩy ra trong óc Mồ Côi. Nhằm lúc con gấu nhắm tịt cả hai mắt và mải nhai cái áo, Mồ Côi liền nhè nhẹ tụt xuống, cưỡi ngay lên lưng con gấu, hai tay ghì chặt lấy cổ. Gấu bị ôm bất thình lình, hốt hoảng nhưng không dám buông tay, đành phải cõng cả Mồ Côi tụt xuống gốc. Khi gấu còn cách mặt đất hai ba sải, Mồ Côi vội nhảy xuống đất bỏ chạy. Gấu cũng chạy đuổi theo Mồ Côi. Mồ Côi cố sức chạy mãi vào rừng. Bỗng có một cái hang sâu chắn ngang trước mặt, chàng đành phải nhảy liều xuống hang; gấu không dám nhảy theo. Mồ Côi nhờ vậy được thoát.

Nhưng từ đây, chàng lại lâm vào một cảnh khổ cực nguy hiểm mới. Hang tối om. Chàng phải lần mò từng bước chân để một lối đi ra ngoài. Chàng đi mãi trong hang nhưng đi tới đâu cũng thấy tối như bưng. Xung quanh chàng chỉ có những con dơi bay đi bay lại. Chúng bay qua đầu chàng rứt từng sợi tóc, từng mảnh da. Bao nhiêu ngày ở trong hang phải chịu cực hình như thế. Mặc dầu vậy chàng cố len lỏi đi hết gốc hang này, lại dò đi sang gốc hang kia mong tìm một lối thoát.

Chợt một hôm chàng lần tới một chỗ nọ có một tia ánh sáng lọt vào. Chàng vui mừng khấp khởi. Nhưng về sau mới biết đó chỉ là một lỗ thông thiên chứ không phải là cửa hang. Tuy vậy chàng cũng cố vịn vào vách đá trèo lên để vượt ra ngoài. Nhưng sức chàng đã yếu lắm, đã năm bẩy lần leo lên được vài ba sải tay, rồi lại ngã xuống chỗ cũ.

Một hôm, trong khi nằm ngất trong hang, chàng thấy một ông cụ đầu tóc bạc phơ, tay cầm một cái rìu và một hòn đá thần đến gần. Ông cụ bảo:

- Ta là thần núi, thấy con khổ cực quá nên đến cứu con đây! Ta cho con một cái rìu. Nó sẽ cho con cơm ăn, áo mặc. Ta cho con hòn đá thần này. Con mang rìu mài vào hòn đá này thì lưỡi rìu sẽ sắc. Con kỳ hòn đá này vào da, da sẽ trở nên trắng trẻo và đẹp đẽ. Cuối cùng ta cho con viên thuốc nó sẽ cho con sức khoẻ vượt hang.

Nói xong, thần núi chống gậy đi mất. Mồ Côi tỉnh dậy, nhặt viên thuốc bỏ vào mồm. Tự nhiên thấy người nhẹ nhõm lạ thường. Chàng giắt cái rìu và hòn đá vào thắt lưng, rồi leo theo vách thẳng lên lỗ thông khác. Khác với những lần trước, lần này chàng trèo nhanh thoăn thoắt, chỉ một lát đã tới lỗ thông hơi và nhìn thấy ánh sáng ở bên ngoài. Chàng nhắm mắt lại một lúc rồi đu người ra khỏi hang.

Chàng lần xuyên qua rừng. Ðến quá trưa, tới bờ một con sông cái. Chàng men bờ, xuôi theo dòng. Ði được một quãng, chàng gặp một ông cụ tiều phu. Nhìn thấy Mồ Côi mặt mũi gớm ghiếc, đầu không còn sợi tóc, da dẻ sần sùi, hai vành tai sứt lở, áo quần rách nát, ông cụ bỏ chạy. Mồ Côi đuổi theo kể mọi lỗi gian lao của mình cho ông nghe. Ông cụ bảo giúp mình đốn củi và phát nương rồi sẽ đưa về nhà.

Mồ Côi liền lấy cái rìu ra mài vào hòn đá thần. Cái rìu trở nên rất sắc, chàng chỉ chặt một lúc đã được một đống củi chất đầy cả một gian nhà. Tối hôm ấy, chàng được ăn nghỉ ở nhà ông cụ.

Ông cụ có sáu cô con gái. Cả sáu cô gái đều đã đến tuổi lấy chồng. Thấy bố dắt về một chàng trai gớm ghiếc, các cô con gái, trừ cô út, đều tránh xa. Họ nói với bố đuổi ngay ra khỏi nhà. Ông cụ phải mắng mãi các cô mới chịu im. Cuối cùng các cô bảo bố cho Mồ Côi ra ở lều ngoài nương để chàng vừa phát thêm rẫy vừa coi lúa. Hàng ngày các cô sẽ luân phiên nhau đưa cơm, bắt đầu từ cô cả.

Ðể khỏi giáp mặt với Mồ Côi, cô cả đem một cái mõ treo lên một gốc cây ở đầu mương cách lều khoảng một trăm bước. Cô gõ mõ một hồi ba tiếng rồi đặt cơm ở gốc cây, gọi Mồ Côi đến lấy cơm ăn. Ðoạn ba chân bốn cẳng quay trở về nhà, không cần biết rằng Mồ Côi có nghe hay không. Lần lượt bốn cô em tiếp sau cũng bắt chước làm như cô chị. Duy chỉ có cô út đến lượt mình đưa cơm, cô không bỏ nắm cơm ở dưới gốc cây, cũng không gõ mõ như các chị, mà đi vào đến tận lều, trao tận tay Mồ Côi. Trong khi Mồ Côi ăn cơm, cô ngồi lại hỏi thăm sức khoẻ, quê quán, gia đình của chàng. Cô cố ý ngồi chờ cho Mồ Côi ăn xong rồi mới về nhà.

Từ ngày ra ở lều, Mồ Côi vẫn làm việc như ông cụ dặn. Sáng nào chàng cũng mài rìu thêm sắc để chặt được nhiều cây. Chiều nào chàng cũng ra suối tắm, lấy hòn đá thần kỳ vào người, quả nhiên da dẻ chàng dần dần trở lại hồng hào, xinh đẹp hơn trước.

Bẵng đi một thời gian, chàng không thấy cô út đến đưa cơm. Tự nhiên thấy buồn buồn nhơ nhớ, chàng cho là cô út cũng bắt chước các chị đặt cơm nắm ở gốc cây, rồi vội vã trở về nhà ngay, không biết cô út bận sang nhà bà cô ở làng bên.

Sau đó ba tháng cô út lại về nhà bố. Cô lại đem cơm vào lều cho Mồ Côi nhưng cô không thấy chàng Mồ Côi xấu xí mọi ngày mà chỉ một chàng trai mặt mày sáng sủa, da dẻ hồng hào, đầu tóc gọn gẽ thì thấy ngạc nhiên, vội hỏi:

- Chàng là ai ? Chàng ở đâu đến ? Chàng có biết cái anh Mồ Côi bị ăn mất hai bàn tay, rứt hết mái tóc trước đây coi nương ở lều này không ?

Biết là cô út không nhận ra mình nữa vì là mình đã nhờ đá thần thay đổi nhiều lắm. Nhưng Mồ Côi chỉ gật đầu chào cô út, không thưa, không rằng. Cô út hỏi tới hai ba lần mà chàng chỉ cười chứ không nói một lời. Thấy vậy cô út đặt nắm cơm xuống sàn, quay ra cửa nhìn về phía rừng gọi Mồ Côi. Cô gọi tới hai ba tiếng, vẫn không có tiếng trả lời.

Gọi xong cô út xuống thang đi vào rừng. Cô tìm khắp bốn góc nương lại hú gọi luôn mồm nhưng vẫn không thấy. Cô đành chạy một mạch về nhà.

Ngày hôm sau, đến lượt cô cả đi đưa cơm. Cô út xin đi thay. Cô định hôm nay phải tìm cho bằng được Mồ Côi mới thôi. Nhưng cô lại chỉ thấy anh chàng trắng trẻo hôm qua. Cô hỏi nhưng chàng trai chỉ cười đáp lại chứ không nói. Cô đặt nắm cơm xuống sàn rồi quay ra cửa định vào rừng tìm. Lần này Mồ Côi không thể làm thinh được nữa, chàng nói:

- Cô út ơi! Cô không phải đi tìm nữa. Xin cô thứ lỗi vì tôi đã làm cô mất công tìm kiếm. Bây giờ tôi đã biết hết lòng dạ của cô đối với tôi rồi. Tôi chính là cái anh Mồ Côi mất tai mất tóc ngày nọ đây.

Cô út quay lại, hết sức ngạc nhiên, cô nói:

- Chàng đấy à ? Sao chàng thay đổi thế này ?

Mồ Côi sung sướng trả lời:

- Cô út ạ ! Nhờ có hòn đá thần này mà tôi đã dần dần trở lại lành lặn như thế này đây.

Rồi chàng kể lại cho cô út nghe những việc làm trong thời gian qua. Từ hôm ấy, ngày nào cô út cũng thay các chị vào nương đưa cơm, các cô chị rất thích không cần hỏi duyên cớ vì sao. Duy chỉ có ông cụ thì hơi lấy làm lạ. Một hôm ông lẻn thi theo rình xem cho rõ sự tình.

Nấp ở trong bụi, ông cụ không thấy anh chàng Mồ Côi xấu xí hồi nọ, mà chỉ thấy một chàng trai trẻ đẹp, nói nói cười cười với con gái út của mình. Chờ cho con về, ông cụ vào lều hỏi xem chàng trai nọ là ai. Sau khi nghe kể, ông cụ mới rõ chàng trai chính là anh chàng Mồ Côi mất tai, mất tóc.

Tối hôm ấy, ông cụ gọi cả sáu cô con gái lại hỏi:

- Anh chàng Mồ Côi ở với ta đã lâu ngày. Chàng rất chăm làm và làm rất khoẻ. Bố vừa lên nương xem thì thấy một mình chàng không những đã trông nom rất chu đáo nương lúa, nương ngô, mà còn phát gốc, chặt cây, được rất nhiều nương rẫy. Vì vậy, bố rất mến, bố muốn kén chàng vào làm rể nhà ta. Có đứa nào bằng lòng lấy chàng không ?

Nghe bố nói, năm cô chị nhìn nhau nhổ nước bọt phì phì và đều trả lời:

- Bố mẹ đừng nghĩ quàng xiên như vậy. Chúng con không bao giờ bỏ phí cái tuổi thanh xuân, dấn thân làm vợ một chàng "người không ra người, quỷ không ra quỷ !"

Ông cụ hỏi cô út, cô đỏ mặt đáp:

- Cha mẹ muốn gả cho chàng, thì con cũng xin vâng. Ông cụ nhìn vợ, rồi nhìn cô út ân cần nói:

- Vậy ngày mai, chúng ta sẽ sửa soạn làm lễ cưới đón rể cho con gái út của chúng ta.

Sáng hôm sau, cả nhà ông cụ sửa soạn lễ cưới cho con út, tất cả họ hàng và xóm làng đều rất ngạc nhiên. Họ xì xào bảo nhau:

"Ông cụ khéo lẩn thẩn, sao lại gả cô út trẻ đẹp, hiền lành, cho cái anh chàng xấu xí ấy". Nhưng buổi đón rể đã làm cho tất cả người họ, người làng, cũng như năm cô chị đều hết sức ngạc nhiên và ghen tị. Ði bên cạnh cô út không phải là chàng Mồ Côi xấu xí, mà là một chàng trai trẻ đẹp, vóc người vạm vỡ, da dẻ hồng hào, mặt mày sáng sủa, đầu tóc gọn gàng và nổi tiếng đốn cây, làm rẫy rất khoẻ.

Thứ Tư, 15 tháng 3, 2017

Sự tích Ông già Noel

Sắp đến giáng sinh rồi, nhắc đến Giáng sinh là chúng ta ai cũng nghĩ ngay đến Ông già Noel, ông già Noel đặc biệt hấp dẫn với các trẻ em, chính vì vậy các bé luôn thắc mắc ông già Noel ở đâu ra. Hôm nay, chúng ta sẽ tìm hiểu về sự tích Ông Già Noel!.

Mỗi lần đến Giáng Sinh chúng ta lại thấy hình ảnh Ông già Noel xuất hiện trên các tấm thiệp Giáng Sinh, trên giấy gói quà, có nhà thì chưng ông già Noel bằng plastic trên sân cỏ. Ngoài đường phố hay ở các khu buôn bán cũng có ông già Noel đứng vẫy tay chào mọi người qua lại. Hình ảnh phổ thông nhất là ông già Noel với các em nhỏ vây quanh trông chờ nhận quà. Những phụ huynh có con nhỏ cũng hay cho con chụp hình với ông già Noel.
Ðặc biệt là Ông già Noel lúc nào cũng mang trên vai một cái túi thật lớn, trong đó là đồ chơi, bánh kẹo, để phân phát cho trẻ em, đặc biệt là những trẻ em nghèo. Ở đây những gia đình có con nhỏ thì có tục lệ treo những chiếc vớ dài chỗ lò sưởi trong phòng khách rồi bỏ quà vào cho con, và các em nhỏ nghĩ rằng trong đêm Giáng Sinh, ông già Noel đã vào nhà qua ống khói lò sưởi để bỏ quà vào những chiếc vớ dài đó. Em nào ngoan ngoãn trong suốt năm sẽ được quà nhiều, em nào không ngoan, không vâng lời cha mẹ thì được quà ít hoặc không có quà.

Có lẽ nhiều người thắc mắc: Không biết bắt đầu từ đâu hay từ nguồn gốc nào mà có truyền thống về ông già Noel trong lễ Giáng Sinh? Có những nhà thờ không muốn nhắc đến Ông Già Noel, cũng không cho người hóa trang làm ông già Noel vào dịp Giáng Sinh vì sợ các em nhỏ hiểu lầm Giáng Sinh là sinh nhật của ông già Noel thay vì nhớ rằng Giáng Sinh là ngày mừng sinh nhật của Chúa Cứu Thế.

Nhưng khi tìm hiểu về sự tích ông già Noel chúng ta thấy huyền thoại về Ông Già Noel hay Santa Clause bắt nguồn từ một chuyện có thật, và cũng có nhiều điều hay, tốt cho chúng ta học hỏi.

Câu chuyện Ông già Noel bắt nguồn từ một chàng thanh niên tên là Nicholas, sống trong vùng Tiểu Á. Anh Nicholas ra đời trong thế kỷ thứ 3 sau Chúa, tại làng Patara, lúc đó thuộc đế quốc Hy Lạp, ngày nay là miền biển phía nam của Thổ Nhĩ Kỳ. Cha mẹ anh là người rất giàu có. Ông bà là tín đồ trung kiên của Chúa Giê-xu. Ông bà dạy con rất cẩn thận trong Lời Chúa, với mong ước con mình lớn lên sẽ trở nên một tín đồ vững mạnh, trung kiên của Chúa.

Khi Nicholas đến tuổi thiếu niên, trong vùng cha mẹ anh sống bị một bệnh dịch lớn lan tràn, cả cha và mẹ anh đều chết vì bệnh dịch đó. Cha mẹ Nicholas để lại cho anh tất cả gia tài của ông bà, vì thế trong phút chốc anh Nicholas trở nên một thiếu niên giàu có. Từ đó Nicholas về sống với người chú ruột, chú của anh là một vị linh mục.
Còn quá trẻ lại bất ngờ được hưởng một gia tài to lớn, nhưng Nicholas không dùng tiền bạc đó cho riêng mình, cũng không phung phí trong các cuộc vui chơi, như những thanh thiếu niên chúng ta thấy trong xã hội ngày nay. Lúc còn nhỏ, Nicholas được cha mẹ dạy rất nhiều về Lời Chúa trong Kinh Thánh.

Bây giờ, cha mẹ không còn nữa, mà mình lại được hưởng một gia tài to lớn, anh Nicholas nhớ lại câu chuyện Chàng Thanh Niên Giàu, trong Phúc Âm Lu-ca. Anh nhớ Chúa Giê-xu nói với thanh niên đó: “Hãy bán hết gia tài mình, phân phát cho kẻ nghèo thì con sẽ có của cải ở trên trời, bấy giờ hãy đến mà theo ta.” Nicholas liền thực hành lời Chúa, anh lấy cả gia tài cha mẹ để lại, đem ra phân phát giúp đỡ cho những người đau ốm, người nghèo khổ cùng những người gặp hoạn nạn khó khăn.

Không những thế, Nicholas cũng dâng trọn cuộc đời để hầu việc Ðức Chúa Trời, vì thế tuy là một người rất trẻ, Nicholas được phong làm Giám mục thành My-ra. Từ đó ai cũng biết giám mục Nicholas là một mạnh thường quân, luôn luôn quan tâm giúp đỡ người nghèo khổ. Ông cũng nổi tiếng là người yêu thương trẻ em và đặc biệt nhất là ông luôn quan tâm giúp đỡ các thủy thủ, quan tâm đến tàu bè của họ.

Người ta kể lại rằng, khi là một thiếu niên giàu có, một lần nọ anh Nicholas nghe nói về một người cha có ba cô con gái đến tuổi lập gia đình, nhưng không biết vì lý do nào đó, người cha bị mất hết tài sản, tiền bạc. Thời đó con gái đến tuổi lập gia đình phải được cha mẹ cho một số tiền lớn, gọi là của hồi môn, thì mới có người đến cưới làm vợ. Số tiền này là để giúp đôi vợ chồng mới bắt đầu cuộc sống riêng.

Người con gái nào không có của hồi môn thì sẽ không ai muốn cưới. Gia đình ông cha và ba cô con gái lúc đó quá nghèo, không còn một chút thức ăn nào trong nhà, còn ba cô con gái thì sắp bị bán làm nô lệ cho bất cứ người nào có tiền bỏ ra mua, vì các cô không thể sống với cha được nữa. Các cô thật buồn lo, vì nếu bị bán làm nô lệ, các cô sẽ không bao giờ có gia đình riêng mà chỉ suốt đời làm nô lệ cho chủ. Sự sống của các cô hoàn toàn do chủ quyết định, chủ cho sống thì được sống, bắt chết thì phải chết.
Buổi tối cuối cùng, trước khi người con gái đầu bị bán làm nô lệ, cô đem giặt những đôi vớ dài và đem treo trước lò sưởi cho khô. Sau đó ông cha và ba cô con gái đi ngủ. Sáng hôm sau, cô gái thấy có một vật lạ trong chiếc vớ của mình. Thò tay vào xem thì thấy có một cái túi nhỏ nhưng khá nặng. Vật nhỏ trong túi đó là một thỏi vàng. Số vàng đó không những đủ để mua thức ăn cho gia đình nhưng còn có thể làm của hồi môn cho người con gái lớn. Bốn cha con thật vui mừng.

Ngày hôm sau, người trong nhà lại thấy có một túi vàng nữa, và nhờ số vàng đó hai người con gái nhỏ cũng được cứu, không bị bán làm nô lệ. Ðến ngày thứ ba, gia đình này lại tìm thấy một túi vàng nữa. Người cha quyết định đêm đó sẽ thức suốt đêm để canh xem ai là người đã bí mật giúp gia đình ông như thế. Nhưng đến khuya ông cha quá mệt nên ngủ thiếp đi. Ðang ngủ, ông nghe có tiếng động gần bên mình, như có ai bỏ một cái túi gì xuống bên cạnh ông rồi đi mất.

Ông cha liền ngồi dậy chạy ra cửa xem thử ai mới vào nhà mình, thì ông thấy anh Nicholas, chàng thanh niên đang sống với người chú làm linh mục. Mừng quá, người cha reo lên: “Ồ, Nicholas, thì ra anh là người giúp gia đình tôi mấy hôm nay, thật tôi không biết nói sao để cảm ơn anh cho hết.” Nicholas trả lời: Bác đừng cảm ơn cháu, nhưng hãy cảm tạ Chúa đã nhậm lời cầu nguyện của bác. Bác nhớ đừng nói cho ai biết nhé”.

Từ đó anh Nicholas tiếp tục giúp đỡ người chung quanh. Anh luôn luôn giúp cách âm thầm, bí mật, anh không muốn ai ghi nhận công ơn hay đến cảm ơn anh. Nhiều năm sau đó Nicholas được phong làm giám mục.

Từ đó Giám mục Nicholas chăm sóc người trong phần trách nhiệm của ông như một người chăn chăm sóc bầy chiên, đúng ra, đó là điều chính yếu ông làm mỗi ngày. Khi trong vùng thiếu thức ăn, ông tìm thức ăn cho mọi người, để không ai bị đói. Ông luôn luôn sẵn sàng giúp những người gặp nạn hay gặp khó khăn. Suốt cả cuộc đời, giám mục Nicholas dạy cho mọi người biết sống như thế nào để bày tỏ lòng kính yêu Ðức Chúa Trời và yêu thương chăm sóc, phục vụ tha nhân.

Dưới thời hoàng đế La-mã Diocletian, là hoàng đế tàn ác, bách hại tín đồ Cơ-đốc giáo, Giám mục Nicholas đã phải chịu khổ nạn, bị bách hại vì đức tin nơi Chúa. Ông bị trục xuất khỏi quê hương và bị giam trong tù. Nhà tù lúc đó đầy những linh mục, giám mục, mục sư, chấp sự nên không có chỗ cho những tội phạm như những người ăn cắp, cướp của giết người, v.v…
Ðến năm 325, giám mục Nicholas được phóng thích ra khỏi tù, ông liền đi dự công đồng Nicea, và 18 năm sau, vào ngày 6 tháng 12, năm 343, giám mục Nicholas về với Chúa. Từ đó mỗi năm đến ngày 6 tháng 12 hoặc trong tháng 12, người ta làm lễ kỷ niệm Giám mục Nicholas. Khi giám mục Nicholas chết, mọi người đều thương tiếc. Ai cũng yêu mến ông và người ta kể lại cho nhau nghe về những việc thiện lành, nhân đức mà ông đã làm cho bao nhiêu người trong cộng đồng. Các thủy thủ đi đến đâu cũng kể lại những việc đầy yêu thương mà ông Nicholas đã làm cho họ, cho gia đình họ.

Có những câu chuyện cho thấy ông rất là yêu thương các em nhỏ, ông giúp đỡ, ra tay bảo vệ các em khi các em gặp nguy hiểm. Khi những câu chuyện đó được truyền đi từ nơi này đến nơi kia, nhiều người biết đến Nicholas và học theo gương của ông, họ bắt chước ông, đi ra giúp đỡ những người nghèo khổ, những em nhỏ kém may mắn. Vì đời sống yêu thương, quan tâm giúp đỡ mọi người mà Nicholas trở thành thánh nhân, Thánh Nicholas hay Santa Clause.

Giáng Sinh là mùa của yêu thương, của quà tặng, vì trong đêm Giáng Sinh Thiên Chúa đã ban cho chúng ta món quà quý nhất, lớn nhất và cần thiết nhất từ thiên đàng. Món quà đó là Chúa Cứu Thế Giê-xu. Mừng ngày Chúa Giáng Sinh chúng ta hãy noi gương Thánh Nicholas ngày xưa, nghĩ đến những người đang đau khổ, đau buồn, đang gặp hoạn nạn cần được giúp đỡ.

Hãy nghĩ đến những người kém may mắn hơn chúng ta và làm điều gì cụ thể để xoa dịu nỗi khổ của họ. Chúa Giê-xu dạy: “Hãy hết lòng, hết ý, hết sức kính yêu Chúa là Ðức Chúa Trời và hãy yêu người lân cận như mình” (Ma-thi-ơ 22:37-38). Lời Chúa cũng dạy: “Hỡi kẻ rất yêu dấu, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu thương đến từ Ðức Chúa Trời. Người nào yêu thì sinh từ Ðức Chúa Trời và nhìn biết Ðức Chúa Trời. Ai chẳng yêu thì không nhìn biết Ðức Chúa Trời, vì Ðức Chúa Trời là tình yêu thương” (I Giăng 4:7-8).
Kính chúc quý thính giả một Giáng Sinh đầy niềm vui và yêu thương vì đã đón nhận Chúa của tình yêu vào cuộc đời mình.

Thứ Ba, 7 tháng 3, 2017

Sự tích bông cúc trắng

Ngày xửa ngày xưa, ở một xóm vắng có nhà nọ chỉ có hai mẹ con nương tựa nhau mà sống. Còn người cha thì đã mất từ rất sớm, để lại hai mẹ con đơn côi trong túp lều nhỏ. Họ phải làm việc vô cùng vất vả thì mới kiếm vừa đủ ăn.
Vào một ngày kia, người mẹ vì làm việc quá nhiều nên bị ốm. Bà liền gọi con gái tới và bảo rằng:
– Con ơi! Giờ con hãy đi tìm thầy thuốc tới đây giúp mẹ.
Sự tích bông cúc trắng

Truyện cổ tích việt nam: Sự tích bông hoa cúc trắng
Cô bé vâng lời mẹ, vội vàng ra đi, cô cứ vừa đi vừa lo lắng cho mẹ của mình. Trên đường, cô vô tình gặp một cụ già tóc bạc, râu trắng. Cụ già thấy cô bé vội vã như vậy thì hỏi thăm:

– Này cô bé, cháu đi đâu sao mà lại vội thế?

Dù đương vội nhưng cô bé cũng dừng lại trả lời cụ già:

– Thưa cụ, giờ cháu đang đi mời thầy thuốc ạ, mẹ của cháu đang bị bệnh nặng.

Nghe vậy cụ già lại bảo cô bé:

– Ta chính là thầy thuốc. Vậy giờ cháu dẫn ta tới nhà cháu đi, ta sẽ khám bệnh giúp mẹ cháu.

Cô bé hết sức vui mừng, dẫn đường cho cụ già về nhà mình. Đến nơi, cụ già liền khám bệnh cho mẹ của cô. Sau đó thì cụ già mới bảo cô bé là:

– Bệnh của mẹ cháu đã nặng lắm rồi. Nhưng ta sẽ cố gắng hết sức để có thể chữa khỏi bệnh cho mẹ cháu. Giờ thì cháu phải đi ngay ra chỗ gốc đa ở đầu rừng, cháu sẽ thấy gần đó có bông hoa màu trắng, sau đó cháu hãy đem bông hoa về đây.

Ngoài trời bây giờ đang rất là lạnh. Mà cô bé của chúng ta chỉ mặc có một chiếc áo rất mỏng ở trên người. Nhưng thương mẹ, cô cứ đi mãi, đi mãi, cho đến khi đôi chân đã mỏi nhừ thì cô mới tới được chỗ gốc đa nơi đầu rừng như lời chỉ của cụ già kia.

Khi cô nhìn ngó xung quanh thì thấy ngay ở bụi cây gần đó có một bông hoa màu trắng rất là đẹp. Không chần chừ lâu, cô bé hái bông hoa, nâng niu nó trên tay như là vật quý. Đột nhiên cô bé lại nghe thấy có tiếng nói của cụ già đang văng vẳng ở bên tai mình:

– Bông hoa có bao nhiêu cánh nghĩa là mẹ cháu sống được bấy nhiêu ngày.

Cô bé lập tức nhìn xuống bông hoa và cẩn thận đếm từng cánh một:

– Một cánh, hai cánh, ba cánh, bốn cánh… hai mươi cánh. Trời ơi! Nghĩa là mẹ mình chỉ còn có thể sống được hai mươi ngày nữa sao?

Sau một hồi suy nghĩ thì cô bé liền ngồi xuống, nhẹ nhàng xé từng cánh hoa ra thành rất nhiều sợi nhỏ khác. Và mỗi sợi nhỏ ấy lại trở thành một cánh hoa vừa dài vừa mượt. Từ bông hoa chỉ có hai mươi cánh giờ đã trở thành bông hoa có vô vàn là cánh hoa.

Sau đó cô bé mới đem theo bông hoa chạy nhanh về nhà. Về đến nơi cô đã thấy cụ già kia đứng ngay cửa để chào đón mình. Cụ già tươi cười mà nói với cô rằng:

– Mẹ của cháu khỏi bệnh rồi đấy. Đó chính là phần thưởng cho lòng hiếu thảo, ngoan ngoãn của cháu!

Kể từ đó về sau, hằng năm cứ vào mùa thu là những bông hoa có nhiều cánh lại đua nhau nở rộ, vô cùng xinh đẹp. Và người ta đặt tên cho chúng là bông cúc trắng, nó là biểu tượng cho lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ.