2 chị em Giang và Tùng rất muốn ăn kem, nên đã lấy giày của ba mẹ mang đi bán. Không biết chuyện gì sẽ xảy ra với Giang và Tùng đây? Các em cùng xem Chuyện kể bé nghe tập 1 nhé!
Chủ Nhật, 25 tháng 12, 2016
Thứ Sáu, 9 tháng 12, 2016
Truyện cổ tích: Mụ yêu tinh và bầy trẻ
Truyện cổ tích Việt Nam mụ yêu tinh và bầy trẻ – Ngày xửa ngày xưa, trong một khu rừng sâu có một mụ yêu tinh chuyên ăn thịt người.
Hàng ngày, mụ rình rập những người vào rừng săn thú, kiếm củi hoặc hái nấm. Kẻ nào không may rơi vào tay mụ sẽ bị ăn thịt ngay lập tức.
Một hôm, có một lũ trẻ rủ nhau vào rừng hái nấm chẳng may lọt vào lãnh địa của mụ.
Phát hiện lũ trẻ dính vào bẫy của mình mụ đuổi bắt định tóm chúng ăn thịt dần. Bọn trẻ rất thông minh chúng đã leo hết lên cây để trốn mụ. Bất lực vì không thể bắt được chúng mụ yêu tinh đã phải đợi chúng đói khát phải tụt xuống.
Lũ trẻ nhận thấy nếu cứ mãi ở trên cây cũng không xong, bọn chúng đã nghĩ cách để trốn thoát. Cuối cùng với sự thông minh của bọn trẻ mụ phù thủy đã bị chúng trói lên cây.
Thoát khỏi được mụ yêu tinh nhưng lũ trẻ không ngờ rằng mụ yêu tinh có thể thoát được khỏi sợi dây trói, rốt cuộc những đứa trẻ đã bị mụ tóm gọn duy nhất chỉ có một đứa trẻ là trốn thoát vì nấp sau phiến đá ở gần đó.
Với sự mưu trí và thông minh của mình, đứa trẻ duy nhất trốn thoát đã quay lại và cứu thoát những đứa trẻ còn lại. Và tất cả đã cho mụ yêu tinh bị cuốn theo dòng nước xiết ở con suối ngay đó.
Truyện cổ tích Việt Nam mụ yêu tinh và bầy trẻ đã rút ra kinh nghiệm cho các em chỉ cần sự thông minh và mưu trí sẽ có thể chiến thắng được những kẻ hung ác và gian tà. Cảm ơn các em đã đón đọc câu chuyện của chúng tôi!
Hàng ngày, mụ rình rập những người vào rừng săn thú, kiếm củi hoặc hái nấm. Kẻ nào không may rơi vào tay mụ sẽ bị ăn thịt ngay lập tức.
Một hôm, có một lũ trẻ rủ nhau vào rừng hái nấm chẳng may lọt vào lãnh địa của mụ.
Phát hiện lũ trẻ dính vào bẫy của mình mụ đuổi bắt định tóm chúng ăn thịt dần. Bọn trẻ rất thông minh chúng đã leo hết lên cây để trốn mụ. Bất lực vì không thể bắt được chúng mụ yêu tinh đã phải đợi chúng đói khát phải tụt xuống.
Lũ trẻ nhận thấy nếu cứ mãi ở trên cây cũng không xong, bọn chúng đã nghĩ cách để trốn thoát. Cuối cùng với sự thông minh của bọn trẻ mụ phù thủy đã bị chúng trói lên cây.
Thoát khỏi được mụ yêu tinh nhưng lũ trẻ không ngờ rằng mụ yêu tinh có thể thoát được khỏi sợi dây trói, rốt cuộc những đứa trẻ đã bị mụ tóm gọn duy nhất chỉ có một đứa trẻ là trốn thoát vì nấp sau phiến đá ở gần đó.
Với sự mưu trí và thông minh của mình, đứa trẻ duy nhất trốn thoát đã quay lại và cứu thoát những đứa trẻ còn lại. Và tất cả đã cho mụ yêu tinh bị cuốn theo dòng nước xiết ở con suối ngay đó.
Truyện cổ tích Việt Nam mụ yêu tinh và bầy trẻ đã rút ra kinh nghiệm cho các em chỉ cần sự thông minh và mưu trí sẽ có thể chiến thắng được những kẻ hung ác và gian tà. Cảm ơn các em đã đón đọc câu chuyện của chúng tôi!
Thứ Ba, 29 tháng 11, 2016
Truyện cổ tích cho bé: Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn
Giữa mùa đông lạnh giá, bầu trời tuyết rơi nhiều và trắng như bông. Có 1 bà hoàng hậu ngồi bên cửa sổ bằng gỗ mun khâu vá, bà mải ngắm nhìn tuyết ngoài trời nên kim đâm phải tay bà, 3 giọt máu rơi xuống làn tuyết trắng xóa.
Thấy máu đỏ hòa lẫn với màu trắng tinh của tuyết tạo nên 1 màu vô cùng đẹp, bà nghĩ thầm trong bụng: “Ước gì ta sinh được 1 đứa con gái, da trắng như bông tuyết, môi đỏ như son và tóc đen như gỗ mun”.
Thế rồi điều ước của bà Hoàng Hậu đã trở thành sự thật, sau đó ít lâu, bà sinh hạ được 1 cô con gái rất xinh đẹp, có làn da trắng như tuyết, môi đỏ như son và mái tóc đen như gỗ mun; chính vì vậy bà đã đặt tên cho con là Bạch Tuyết sau đó vài hôm thì hoàng hậu qua đời.
>>> See more: truyện cổ tích thiếu nhi
Sau 1 năm, qua đã cưới người vợ khác. Bà này nhìn cũng rất xinh đẹp nhưng mà tính tình rất kiêu ngạo tự phụ, và rất độc ác. Bà ta không muốn bất cứ ai đẹp bằng mình. Bà ta sở hữu 1 chiếc gương thần, khi soi gương, bà ta hỏi:
“Gương kia ngự tại trên tường,
Thế gian ai đẹp được bằng như ta?”
Gương đáp:
– Hiện giờ trên thế gian hoàng hậu là người đẹp nhất rồi.
Trong lúc ấy Nàng Bạch Tuyết càng lớn lên lại càng xinh đẹp, ai nhìn cũng yêu mến. Thấy vậy, mụ hỏi gương liền:
“Gương kia ngự tại trên tường,
Thế gian ai đẹp được bằng như ta?”
Lần này gương đáp lại:
“Xưa kia bà đẹp nhất trần,
Ngày nay Bạch Tuyết muôn phần đẹp hơn.”
Hoàng hậu nghe xong bất ngờ và tái mặt đi. Kể từ khi đó mỗi hoàng hậu nhìn thấy Bạch Tuyết, bà ta lại trỗi dậy trong lòng sự ghen ghét đố kị.
Một hôm, Mụ cho gọi 1 người thợ săn đến và dặn:
– Ngươi hãy mang Bạch Tuyết vào trong rừng giết chết nó đi, sau đó đem quả tim và lá gan nó về đây cho ta.
Người thợ săn tuân lệnh bà hoàng hậu, bắt cóc Bạch Tuyết mang đi vào rừng. thấy vậy Bạch Tuyết đã van xin bác thợ săn:
– Bác ơi, bác đừng giết cháu.
Thấy Bạch Tuyết đáng thương nên tha cho nàng, người thợ săn bắn tên trúng con hoẵng, mổ bụng lấy tim gan của nó để mang về đưa cho mụ hoàng hậu, giả là tim gan của Bạch Tuyết.
Không hề nghi ngờ gì, mụ ta sai người hầu xào số tim gan đó lên ăn ngấu nghiến.
Quá sợ hãi, Bạch Tuyết cắm đầu chạy một mạch vào rừng sâu chân chảy cả máu. Trong rừng rất nhiều thú dữ nhưng không có con nào đụng tới nàng. Chạy nhiều quá đôi chân mỏi rã rời, nhưng may thay đến chập tối nàng thấy có một ngôi nhà nhỏ ở giữa chốn rừng sâu. Quá mệt mỏi nên nàng vào trong nhà để nghỉ mà để ý đến nhà của ai, nguy hiểm gì không?
Trong nhà vật dụng gì cũng nhỏ ti ti, nhưng rất đẹp và sạch sẽ. Trên bàn có bày 7 xuất đồ ăn. Vì bụng đang rất đói, Bạch Tuyết liền ăn ở mỗi đĩa một chút. Ăn xong Bạch Tuyết tìm một chiếc giường để ngủ. Nhưng nàng mãi mới tìm được chiếc phù hợp. Vì quá mệt mỏi nên nàng đặt lưng xuống là ngủ thiếp đi.
Trời tối sẩm, những người chủ thực sự của căn nhà mới trở về, đó là bảy chú lùn làm công việc đào mỏ. Họ thắp bảy ngọn nến lên, họ cảm thấy rằng hình như có người lạ đã vào nhà.
Một chú nói: “Có ai đã ngồi vào chiếc ghế của tôi?”. Chú thứ hai nói: “Có ai đã ăn thức ăn trong chiếc đĩa của tôi?”. Chú thứ ba nói: “Hình như ai đó đã ăn một phần chiếc bánh của tôi?”, chú thứ tư nói: “Tôi cũng vậy, có ai đó đã ăn ít rau của tôi?”, chú thứ năm nói: “Có ai đó đã dùng chiếc dĩa của tôi”, chứ thứ sáu nói: “Có ai đó đã dùng chiếc dao của tôi”, cuối cùng chú thứ bảy nói: “Còn tôi thì chắc chắn rằng có ai đó đã uống nước trong chiếc cốc của tôi?”.
Các chú lùn nhìn quay, họ chạy lại chiếc giường của mình để xem, chú thứ bảy ngạc nhiên thấy trên giường của chú, Bạch Tuyết đang ngủ rất say. Chú gọi cho sáu chú lùn còn lại tới xem, ai nấy cũng đều rất ngạc nhiên, họ cầm bảy ngọn đèn soi vào Bạch Tuyết và reo lên: “Lạy chúa! Cô bé này đẹp quá”. Thấy Bạch Tuyết ngủ rất say, các chú để yên cho nàng ngủ.
Sáng hôm sau, khi tỉnh giấc, thấy bảy chú lùn, nàng hoảng sợ. Bảy chú lùn tới gần Bạch Tuyết thân mật hỏi nàng:
– Cô tên là gì? Tại sao cô lại tới đây, giữa chốn rừng sâu này?
Bạch tuyết trả lời:
– Em tên là Bạch Tuyết
Sau đó nàng kể cho bảy chú lùn nghe về chuyện bà gì ghẻ muốn giết cô, người thợ săn vì thương cô nên đã cho cô chốn thoát vào rừng sâu. Truyện cổ tích Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn bắt đầu từ đấy.
Kể từ khi đó, Bạch Tuyết ở lại chung sống cùng bảy chú lùn vui tính. Nàng rất chăm chỉ trong nhà, bảy chú lùn cũng tích cực hơn cho công việc khai thác mỏ.
Trước khi đi làm bảy chú lùn không quên dặn nàng: “Ở nhà phải hết sức cẩn thận, đừng cho bất kể ai vào nhà”.
Nói về mụ hoàng hậu, từ lúc ăn ngon lành món “tim gan giả” của Bạch Tuyết, mụ ta đinh ninh là Bạch Tuyết đã chết rồi, từ nay mụ ta sẽ là người đẹp nhất thế gian.
Mụ ta lại hỏi gương:
“Gương kia ngự ở trên tường,
Nước ta ai đẹp được dường như ta?”
Gương đáp:
“Xưa kia bà đẹp nhất trần,
Ngày nay Bạch Tuyết muôn phần đẹp hơn.
Nàng ở khuất núi khuất non,
Tại nhà của bảy chú lùn xa xa.”
Nge xong mụ đã cải trang thành một bà lão bán hàng, rồi mụ vượt qua bảy ngọn núi, đi vào rừng sâu tới nhà của bảy chú lùn. Tới nơi, mụ gõ cửa nói:
Bạch tuyết nhìn qua cửa sổ hỏi:
– Chào bà, bà có gì bán đấy ạ ?
Mụ đáp:
– Ta có nhiều đồ đẹp lắm con, đủ thứ từ dây buộc tóc rất đẹp. Nàng bèn mở cửa chính cho mụ vào nhà.
Mụ bảo nàng:
– Con buộc không đúng rồi, để ta dạy cho con cách buộc.
Bạch Tuyết cho mụ buộc hộ mà không có chút đề phòng. Mụ đứng sau ra sức thít thật chặt dây áo khiến nàng bất tỉnh. Giết xong Bạch Tuyết mụ vội vã quay trở về lâu đài.
Khi về bảy chú lùn thấy vậy liền cắt chiếc áo. Bạch Tuyết dần dần tỉnh trở lại. Sau khi nghe Bạch Tuyết về chuyện vừa sảy ra. Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn chắc chắn bà già bán hàng là mụ phù thủy giả dạng. Có khả năng mụ ta còn tiếp tục quay trở lại đây nếu như biết cô vẫn còn sống.
Về tới lâu đài, mụ phù thủy lập tức chạy lại hỏi gương:
“Gương kia ngự ở trêntường,
Nước ta ai đẹp được dường như ta?”
Gương đáp:
“Xưa kia bà đẹp nhất trần,
Ngày nay Bạch Tuyết muôn phần đẹp hơn.
Nàng ở khuất núi khuất non,
Tại nhà của bảy chú lùn xa xa.”
Nghe gương nói vậy, mụ ta lại sôi máu vì biết Bạch Tuyết đã được bảy chú lùn cứu sống. Mụ nghĩ trong tức tối. Mụ lập tức chế thuốc độc rồi tẩm vào trong một chiếc lược rất đẹp. Sau khi tẩm độc xong, mụ lại cải trang thành một bà lão bán hàng với bộ dạng khác.
Mụ tiếp tục vượt bảy ngọn núi, đi vào rừng sâu tới nhà của bảy chú lùn, tới nơi mụ gõ cửa nói:
– Có ai ở nhà không? Bà có rất nhiều hàng đẹp bán đây.
Lần này Bạch Tuyết cảnh giác nên ngó qua cửa sổ nói to:
– Bà đi đi, tôi không cho bất cứ ai vào nhà đâu.
Mụ phù thủy nói tiếp:
– Ta không vào nhà đâu, nhưng con hãy xem đồ của ta qua cửa sổ, chắc con sẽ rất thích.
Rồi mụ giơ chiếc lược đã tẩm thuốc độc cho Bạch Tuyết xem. Vì thấy lược quá đẹp nên Bạch Tuyết ra mở cửa để mụ vào nhà.
Mụ phù thủy nói với Bạch Tuyết:
– Để bà chải cho con nhé
Bạch Tuyết không chút đề phòng để cho mụ chải đầu cho mình. Khi lược mới chạm vào tóc, Bạch Tuyết đã bị trúng độc tẩm trong chiếc lược rồi lăn đùng ra sàn nhà bất tỉnh.
Mụ phù thủy gian ác nói:
– Lần này thì thần may mắn không mỉm cười với ngươi đâu, thuốc độc ta làm là kịch độc.
May sao trời cũng muộn nên các chú lùn về kịp. Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn nhìn nhau có phần lo lắng.
Khi vừa trở về lâu đài, mụ dì ghẻ lại hỏi gương ngay:
“Gương kia ngự ở trên tường,
Nước ta ai đẹp được dường như ta?”
Gương vẫn đáp lại như vậy. Lần này mụ vô cùng tức giận.
Mụ đi vào một căn phòng bí mật tối tăm của mụ trong lâu đài, nơi mà không có ai được bước chân tới. Mụ lấy một quả táo, tẩm thuốc độc vào, phù phép cho quả táo nhìn trông rất ngon, nửa đỏ nửa trắng thơm ngon tuyệt.
Lần này mụ giả làm một bà nông dân. Vượt qua bảy ngọn núi, cuối cùng mụ cũng tới được nhà của bảy chú lùn. Mụ lại gõ cửa như mọi khi. Bạch Tuyết khéo léo từ chối nhưng
Mụ phù thủy nói tiếp:
– Đừng lo cháu gái xinh đẹp? Táo rất ngon, ta sẽ bổ táo ra và ăn một nửa xanh, còn nửa chín ta sẽ cho con.
Thấy bà ta ăn ngon lành Bạch Tuyết vừa cắn miếng táo, nàng đã bị trúng độc và lăn ra chết mà đâu biết thuốc độc chỉ được tẩm ở nửa chín. Thấy vậy mụ rất hả hê. Khi quay trở về đến cung, mụ lại không quên hỏi gương:
“Gương kia ngự ở trên tường,
Nước ta ai đẹp được dường như ta?”
Gương đáp:
– Tâu hoàng hậu, hoàng hậu là người đẹp nhất thế gian.
Cho tới lúc này, mụ phù thủy mới thực sự yên tâm và thư thái.
Như mọi lần các chú lùn cũng về ngay sau đó nhưng làm mọi cách đều vô tác dụng. Không cứu được các chú lùn ngồi quanh mà khóc. Nhìn nàng ai cũng nghĩ nàng chỉ đang ngủ nên không ai nỡ vùi nàng xuống đất đen.
Xác Bạch Tuyết được đặt trong một chiếc quan tài được làm bằng thủy tinh được canh gác mỗi ngày. Dường như các loài thú, chim muông trong khu rừng cũng vô cùng thương tiếc Bạch Tuyết đều đến ghé thăm nàng. Mặc dù đã được vài ngày nhưng sắc mặt bạch tuyết không hề thay đổi.
Một hôm, có một vị hoàng tử đi rừng xin ghé thăm ngủ nhờ một đêm. Thấy Bạch Tuyết quá xinh đẹp nên hoàng tử vẫn đem lòng yêu mến, muốn xin bảy chú lùn được cho mình chở chiếc quan tài đó về cung.
Thấy được tấm chân tình, các chú lùn động lòng nên đồng ý. Trên đường đi đá sỏi gập ghềnh chiếc quan tài cứ nẩy lên liên tục giúp Bạch Tuyết nôn ra được miếng táo độc trong người. Nàng tỉnh dậy, mở nắp chiếc quan tài và thốt lên:
– Đây là đâu? Sao ta lại ở đây?
Hoàng tử thấy thế vui mừng khó tả:
– Ta là hoàng tử
Sau đó hoàng tử kể lại mọi chuyện cho Bạch Tuyết nghe, hoàng tử nói tiếp:
– Bạch Tuyết, ta muốn được cưới nàng làm vợ. Ta thực sự rất yêu nàng. Thế là nàng theo hoàng tử về cung. Lễ cưới được diễn ra rất long trọng.
Mụ gì ghẻ độc ác cũng được mời tới dự lễ thành hôn. Trước khi đi mụ trang điểm đẹp và tới gương tự tin hỏi: Nhưng lần này gương nói có một người khác tại lễ cưới.
“Gương kia ngự ở trên tường,
Nước ta ai đẹp được dường như ta?”
Gương đáp:
“Tâu bà, bà đẹp tuyệt trần,
Nhưng bà hoàng mới muôn phần đẹp hơn.”
Mụ gì ghẻ nổi cơn tức tối, mụ muốn đi để xem ai là người xinh đẹp hơn mụ.
Khi mụ vừa bước vào, mụ thất thần khi nhận ra đó chính là Bạch Tuyết, vì quá kinh ngạc và sợ hãi, tim của mụ vỡ tung, mụ lăn đùng ra chết.
Thấy máu đỏ hòa lẫn với màu trắng tinh của tuyết tạo nên 1 màu vô cùng đẹp, bà nghĩ thầm trong bụng: “Ước gì ta sinh được 1 đứa con gái, da trắng như bông tuyết, môi đỏ như son và tóc đen như gỗ mun”.
Thế rồi điều ước của bà Hoàng Hậu đã trở thành sự thật, sau đó ít lâu, bà sinh hạ được 1 cô con gái rất xinh đẹp, có làn da trắng như tuyết, môi đỏ như son và mái tóc đen như gỗ mun; chính vì vậy bà đã đặt tên cho con là Bạch Tuyết sau đó vài hôm thì hoàng hậu qua đời.
>>> See more: truyện cổ tích thiếu nhi
Sau 1 năm, qua đã cưới người vợ khác. Bà này nhìn cũng rất xinh đẹp nhưng mà tính tình rất kiêu ngạo tự phụ, và rất độc ác. Bà ta không muốn bất cứ ai đẹp bằng mình. Bà ta sở hữu 1 chiếc gương thần, khi soi gương, bà ta hỏi:
“Gương kia ngự tại trên tường,
Thế gian ai đẹp được bằng như ta?”
Gương đáp:
– Hiện giờ trên thế gian hoàng hậu là người đẹp nhất rồi.
Trong lúc ấy Nàng Bạch Tuyết càng lớn lên lại càng xinh đẹp, ai nhìn cũng yêu mến. Thấy vậy, mụ hỏi gương liền:
“Gương kia ngự tại trên tường,
Thế gian ai đẹp được bằng như ta?”
Lần này gương đáp lại:
“Xưa kia bà đẹp nhất trần,
Ngày nay Bạch Tuyết muôn phần đẹp hơn.”
Hoàng hậu nghe xong bất ngờ và tái mặt đi. Kể từ khi đó mỗi hoàng hậu nhìn thấy Bạch Tuyết, bà ta lại trỗi dậy trong lòng sự ghen ghét đố kị.
Một hôm, Mụ cho gọi 1 người thợ săn đến và dặn:
– Ngươi hãy mang Bạch Tuyết vào trong rừng giết chết nó đi, sau đó đem quả tim và lá gan nó về đây cho ta.
Người thợ săn tuân lệnh bà hoàng hậu, bắt cóc Bạch Tuyết mang đi vào rừng. thấy vậy Bạch Tuyết đã van xin bác thợ săn:
– Bác ơi, bác đừng giết cháu.
Thấy Bạch Tuyết đáng thương nên tha cho nàng, người thợ săn bắn tên trúng con hoẵng, mổ bụng lấy tim gan của nó để mang về đưa cho mụ hoàng hậu, giả là tim gan của Bạch Tuyết.
Không hề nghi ngờ gì, mụ ta sai người hầu xào số tim gan đó lên ăn ngấu nghiến.
Quá sợ hãi, Bạch Tuyết cắm đầu chạy một mạch vào rừng sâu chân chảy cả máu. Trong rừng rất nhiều thú dữ nhưng không có con nào đụng tới nàng. Chạy nhiều quá đôi chân mỏi rã rời, nhưng may thay đến chập tối nàng thấy có một ngôi nhà nhỏ ở giữa chốn rừng sâu. Quá mệt mỏi nên nàng vào trong nhà để nghỉ mà để ý đến nhà của ai, nguy hiểm gì không?
Trong nhà vật dụng gì cũng nhỏ ti ti, nhưng rất đẹp và sạch sẽ. Trên bàn có bày 7 xuất đồ ăn. Vì bụng đang rất đói, Bạch Tuyết liền ăn ở mỗi đĩa một chút. Ăn xong Bạch Tuyết tìm một chiếc giường để ngủ. Nhưng nàng mãi mới tìm được chiếc phù hợp. Vì quá mệt mỏi nên nàng đặt lưng xuống là ngủ thiếp đi.
Trời tối sẩm, những người chủ thực sự của căn nhà mới trở về, đó là bảy chú lùn làm công việc đào mỏ. Họ thắp bảy ngọn nến lên, họ cảm thấy rằng hình như có người lạ đã vào nhà.
Một chú nói: “Có ai đã ngồi vào chiếc ghế của tôi?”. Chú thứ hai nói: “Có ai đã ăn thức ăn trong chiếc đĩa của tôi?”. Chú thứ ba nói: “Hình như ai đó đã ăn một phần chiếc bánh của tôi?”, chú thứ tư nói: “Tôi cũng vậy, có ai đó đã ăn ít rau của tôi?”, chú thứ năm nói: “Có ai đó đã dùng chiếc dĩa của tôi”, chứ thứ sáu nói: “Có ai đó đã dùng chiếc dao của tôi”, cuối cùng chú thứ bảy nói: “Còn tôi thì chắc chắn rằng có ai đó đã uống nước trong chiếc cốc của tôi?”.
Các chú lùn nhìn quay, họ chạy lại chiếc giường của mình để xem, chú thứ bảy ngạc nhiên thấy trên giường của chú, Bạch Tuyết đang ngủ rất say. Chú gọi cho sáu chú lùn còn lại tới xem, ai nấy cũng đều rất ngạc nhiên, họ cầm bảy ngọn đèn soi vào Bạch Tuyết và reo lên: “Lạy chúa! Cô bé này đẹp quá”. Thấy Bạch Tuyết ngủ rất say, các chú để yên cho nàng ngủ.
Sáng hôm sau, khi tỉnh giấc, thấy bảy chú lùn, nàng hoảng sợ. Bảy chú lùn tới gần Bạch Tuyết thân mật hỏi nàng:
– Cô tên là gì? Tại sao cô lại tới đây, giữa chốn rừng sâu này?
Bạch tuyết trả lời:
– Em tên là Bạch Tuyết
Sau đó nàng kể cho bảy chú lùn nghe về chuyện bà gì ghẻ muốn giết cô, người thợ săn vì thương cô nên đã cho cô chốn thoát vào rừng sâu. Truyện cổ tích Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn bắt đầu từ đấy.
Kể từ khi đó, Bạch Tuyết ở lại chung sống cùng bảy chú lùn vui tính. Nàng rất chăm chỉ trong nhà, bảy chú lùn cũng tích cực hơn cho công việc khai thác mỏ.
Trước khi đi làm bảy chú lùn không quên dặn nàng: “Ở nhà phải hết sức cẩn thận, đừng cho bất kể ai vào nhà”.
Nói về mụ hoàng hậu, từ lúc ăn ngon lành món “tim gan giả” của Bạch Tuyết, mụ ta đinh ninh là Bạch Tuyết đã chết rồi, từ nay mụ ta sẽ là người đẹp nhất thế gian.
Mụ ta lại hỏi gương:
“Gương kia ngự ở trên tường,
Nước ta ai đẹp được dường như ta?”
Gương đáp:
“Xưa kia bà đẹp nhất trần,
Ngày nay Bạch Tuyết muôn phần đẹp hơn.
Nàng ở khuất núi khuất non,
Tại nhà của bảy chú lùn xa xa.”
Nge xong mụ đã cải trang thành một bà lão bán hàng, rồi mụ vượt qua bảy ngọn núi, đi vào rừng sâu tới nhà của bảy chú lùn. Tới nơi, mụ gõ cửa nói:
Bạch tuyết nhìn qua cửa sổ hỏi:
– Chào bà, bà có gì bán đấy ạ ?
Mụ đáp:
– Ta có nhiều đồ đẹp lắm con, đủ thứ từ dây buộc tóc rất đẹp. Nàng bèn mở cửa chính cho mụ vào nhà.
Mụ bảo nàng:
– Con buộc không đúng rồi, để ta dạy cho con cách buộc.
Bạch Tuyết cho mụ buộc hộ mà không có chút đề phòng. Mụ đứng sau ra sức thít thật chặt dây áo khiến nàng bất tỉnh. Giết xong Bạch Tuyết mụ vội vã quay trở về lâu đài.
Khi về bảy chú lùn thấy vậy liền cắt chiếc áo. Bạch Tuyết dần dần tỉnh trở lại. Sau khi nghe Bạch Tuyết về chuyện vừa sảy ra. Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn chắc chắn bà già bán hàng là mụ phù thủy giả dạng. Có khả năng mụ ta còn tiếp tục quay trở lại đây nếu như biết cô vẫn còn sống.
Về tới lâu đài, mụ phù thủy lập tức chạy lại hỏi gương:
“Gương kia ngự ở trêntường,
Nước ta ai đẹp được dường như ta?”
Gương đáp:
“Xưa kia bà đẹp nhất trần,
Ngày nay Bạch Tuyết muôn phần đẹp hơn.
Nàng ở khuất núi khuất non,
Tại nhà của bảy chú lùn xa xa.”
Nghe gương nói vậy, mụ ta lại sôi máu vì biết Bạch Tuyết đã được bảy chú lùn cứu sống. Mụ nghĩ trong tức tối. Mụ lập tức chế thuốc độc rồi tẩm vào trong một chiếc lược rất đẹp. Sau khi tẩm độc xong, mụ lại cải trang thành một bà lão bán hàng với bộ dạng khác.
Mụ tiếp tục vượt bảy ngọn núi, đi vào rừng sâu tới nhà của bảy chú lùn, tới nơi mụ gõ cửa nói:
– Có ai ở nhà không? Bà có rất nhiều hàng đẹp bán đây.
Lần này Bạch Tuyết cảnh giác nên ngó qua cửa sổ nói to:
– Bà đi đi, tôi không cho bất cứ ai vào nhà đâu.
Mụ phù thủy nói tiếp:
– Ta không vào nhà đâu, nhưng con hãy xem đồ của ta qua cửa sổ, chắc con sẽ rất thích.
Rồi mụ giơ chiếc lược đã tẩm thuốc độc cho Bạch Tuyết xem. Vì thấy lược quá đẹp nên Bạch Tuyết ra mở cửa để mụ vào nhà.
Mụ phù thủy nói với Bạch Tuyết:
– Để bà chải cho con nhé
Bạch Tuyết không chút đề phòng để cho mụ chải đầu cho mình. Khi lược mới chạm vào tóc, Bạch Tuyết đã bị trúng độc tẩm trong chiếc lược rồi lăn đùng ra sàn nhà bất tỉnh.
Mụ phù thủy gian ác nói:
– Lần này thì thần may mắn không mỉm cười với ngươi đâu, thuốc độc ta làm là kịch độc.
May sao trời cũng muộn nên các chú lùn về kịp. Nàng Bạch Tuyết và bảy chú lùn nhìn nhau có phần lo lắng.
Khi vừa trở về lâu đài, mụ dì ghẻ lại hỏi gương ngay:
“Gương kia ngự ở trên tường,
Nước ta ai đẹp được dường như ta?”
Gương vẫn đáp lại như vậy. Lần này mụ vô cùng tức giận.
Mụ đi vào một căn phòng bí mật tối tăm của mụ trong lâu đài, nơi mà không có ai được bước chân tới. Mụ lấy một quả táo, tẩm thuốc độc vào, phù phép cho quả táo nhìn trông rất ngon, nửa đỏ nửa trắng thơm ngon tuyệt.
Lần này mụ giả làm một bà nông dân. Vượt qua bảy ngọn núi, cuối cùng mụ cũng tới được nhà của bảy chú lùn. Mụ lại gõ cửa như mọi khi. Bạch Tuyết khéo léo từ chối nhưng
Mụ phù thủy nói tiếp:
– Đừng lo cháu gái xinh đẹp? Táo rất ngon, ta sẽ bổ táo ra và ăn một nửa xanh, còn nửa chín ta sẽ cho con.
Thấy bà ta ăn ngon lành Bạch Tuyết vừa cắn miếng táo, nàng đã bị trúng độc và lăn ra chết mà đâu biết thuốc độc chỉ được tẩm ở nửa chín. Thấy vậy mụ rất hả hê. Khi quay trở về đến cung, mụ lại không quên hỏi gương:
“Gương kia ngự ở trên tường,
Nước ta ai đẹp được dường như ta?”
Gương đáp:
– Tâu hoàng hậu, hoàng hậu là người đẹp nhất thế gian.
Cho tới lúc này, mụ phù thủy mới thực sự yên tâm và thư thái.
Như mọi lần các chú lùn cũng về ngay sau đó nhưng làm mọi cách đều vô tác dụng. Không cứu được các chú lùn ngồi quanh mà khóc. Nhìn nàng ai cũng nghĩ nàng chỉ đang ngủ nên không ai nỡ vùi nàng xuống đất đen.
Xác Bạch Tuyết được đặt trong một chiếc quan tài được làm bằng thủy tinh được canh gác mỗi ngày. Dường như các loài thú, chim muông trong khu rừng cũng vô cùng thương tiếc Bạch Tuyết đều đến ghé thăm nàng. Mặc dù đã được vài ngày nhưng sắc mặt bạch tuyết không hề thay đổi.
Một hôm, có một vị hoàng tử đi rừng xin ghé thăm ngủ nhờ một đêm. Thấy Bạch Tuyết quá xinh đẹp nên hoàng tử vẫn đem lòng yêu mến, muốn xin bảy chú lùn được cho mình chở chiếc quan tài đó về cung.
Thấy được tấm chân tình, các chú lùn động lòng nên đồng ý. Trên đường đi đá sỏi gập ghềnh chiếc quan tài cứ nẩy lên liên tục giúp Bạch Tuyết nôn ra được miếng táo độc trong người. Nàng tỉnh dậy, mở nắp chiếc quan tài và thốt lên:
– Đây là đâu? Sao ta lại ở đây?
Hoàng tử thấy thế vui mừng khó tả:
– Ta là hoàng tử
Sau đó hoàng tử kể lại mọi chuyện cho Bạch Tuyết nghe, hoàng tử nói tiếp:
– Bạch Tuyết, ta muốn được cưới nàng làm vợ. Ta thực sự rất yêu nàng. Thế là nàng theo hoàng tử về cung. Lễ cưới được diễn ra rất long trọng.
Mụ gì ghẻ độc ác cũng được mời tới dự lễ thành hôn. Trước khi đi mụ trang điểm đẹp và tới gương tự tin hỏi: Nhưng lần này gương nói có một người khác tại lễ cưới.
“Gương kia ngự ở trên tường,
Nước ta ai đẹp được dường như ta?”
Gương đáp:
“Tâu bà, bà đẹp tuyệt trần,
Nhưng bà hoàng mới muôn phần đẹp hơn.”
Mụ gì ghẻ nổi cơn tức tối, mụ muốn đi để xem ai là người xinh đẹp hơn mụ.
Khi mụ vừa bước vào, mụ thất thần khi nhận ra đó chính là Bạch Tuyết, vì quá kinh ngạc và sợ hãi, tim của mụ vỡ tung, mụ lăn đùng ra chết.
Thứ Sáu, 25 tháng 11, 2016
Sự tích con nhái - Truyện cổ tích
Truyện cổ tích sự tích con nhái là câu chuyện về lòng tu hành của một vị hòa thượng. Bồ Tát đã biến thành một cô gái mỹ miều để thử thách. Vậy sự tích con nhái từ đâu mà có? Nội dung câu chuyện dưới đây sẽ giúp bạn hiểu rõ.
Ngày xửa ngày xưa, có một vị hòa thượng tinh thông phật pháp. Người này cắt đứt mọi dàng buộc với thú vui trần thế một lòng tu hành. Danh tiếng lan truyền đến cung vua. Nhà vua sai người xây một ngôi chùa ngự tại phía nam mời người làm trụ trì nhưng vị sư từ chối và chỉ muốn được ngắm cảnh dân gian và tu hành khắp thiên hạ.
Danh tiếng của vị sư truyền đến quan âm bồ tát. Nhân dịp này Bồ Tát muốn thử thách vị sư này, nếu đúng như lời đồn sẽ đưa về Tây Trúc độ thành phật.
Khi chuẩn bị qua sông, Bồ Tát biến thành một cô gái xinh đẹp lái đò và độ phép cho ít người qua lại. Vị sư này vừa lên thuyền cô gái trẻ lái thuyền đến một vùng đất vắng buông ánh mắt lả lơi mà nói. Vị hòa thượng này đẹp trai quá nên vào đây muốn ân ái cùng hòa thượng. Nghe thấy thế hòa thượng nghiêm nghị nói:
– A di đà phật. Mong cô hãy buông tha. Bần tăng là kẻ thoát tục.
Cô gái nghe thế càng làm tới. Ngay cả khi hòa thượng lấy sách Kim cương tam muôi ra đọc cô gái vẫn không có ý định dừng lại mặc dù tiếng kinh lấn át tiếng cười đùa. Vị hòa thượng lên tiếng cảnh báo một lần nữa:
– A di đà phật! Hiện tại bần tăng mang mang mật chỉ của nhà vua và được phép xử trảm bất cứ ai.
Mong cô đừng đẩy ta vào con đường tàn nhẫn.
Lời nói đó của vị sư vẫn không làm cô gái sợ. Cô nói:
– Chỉ cần chàng yêu thương một chút chết cũng cam lòng
Mãi không thấy hòa thượng lay động cô nghĩ kế khác. Cô bắt đầu cởi bỏ y phục ngay trước mắt vị hòa thượng. Vị hòa thượng liền nhắm mắt lại quay lại bị đồ lấy áo khoác lên người cô gái trong khi miệng vẫn nhẩm kinh.Cô gái vẫn buông lời như mật ngọt rót vào tai.
– Chàng hãy yêu thương em đi ngoài kia không hề có người qua lại.
Vị hòa thượng vẫn không lay chuyển một chút nào. Bồ Tát liền cảm động mà nghĩ người như thế này xứng ngồi trên Niết bàn. Nhưng đã thử phải thử tới cùng, cô gái vẫn bị cực tuyệt cho dù hơi thở đã vương trên má hòa thượng.
Truyện sự tích con nhái bắt đầu khi bồ Tát cố quyến rũ lần cuối.
Lần thứ mười vị hòa thượng không thể kiểm soát được bản thân đưa tay lên thân thể cô gái lái đò. Vậy là mọi công sức tu hành mấy chục năm đổ sông đổ biển. Tức giận vì thấy vị hòa thượng này không giữ được tấm chân tu Bồ Tát đẩy hoàn thượng xuống sông và bắt hòa thượng biến thành con nhái. Từ đó khi loài nhái chắp hai chân trước với nhau giống như tư thế đang vái lạy của vị hòa thượng.
Truyện cổ tích sự tích con nhái bắt đầu như vậy. Đến nay câu truyện vẫn được dân gian lưu truyền khắp nơi.
Thứ Năm, 17 tháng 11, 2016
Sự tích Con rồng - Cháu tiên
Truyện cổ tích Việt Nam sự tích con rồng cháu tiên là truyện kể về nguồn gốc ra đời dân tộc Việt. Là dân Việt Nam không ai là không biết đến câu chuyện này để ghi nhớ.
***
Nghìn năm về trước có một người tên Lộc Tục, hiệu Kinh Dương Vương có sức mạnh phi thường và đi được cả dưới nước như trên cạn. trong một chuyến đi chơi tại Động Đình Vương chàng đã phải lòng Long Nữ con gái của Long Vương. Hai người họ kết hôn và sinh được một người con trai có sức mạnh y hệt cha. Lấy hiệu là Lạc Long Quan và nối nghiệp cha.
Lúc bấy giờ vùng đất Linh Nam còn hoang vu, không được bình yên nên Lạc Long Quan đi ngao du khắp chốn.
Tại bờ biển phía Đông Nam có một con cá rất lớn, lâu năm dài cả 50 trượng. Đuôi nó to như cánh buồm còn miệng rộng có thể nuốt được cả 10 người. Nó làm sóng làm thuyền bè đều chìm nghỉm, tất thảy mọi người đều bị ăn thịt. Người dân đặt cho nó tên Ngư tinh.
Lạc Long Quân thấy thế bèn quyết tâm diệt loài thủy quái này. Chàng đóng một chiếc thuyền lớn và rèn nhiều thanh sắt đỏ lửa mang xuống thuyền. Đến chỗ Ngư tinh chàng vờ mình là người dân chài cũng ném thức ăn nhưng thay bằng thức ăn là những khối sắt nóng đỏ rực. Ngư tinh không hề nghi ngờ nuốt luôn những khối sắt đó và bị bỏng cháy họng. Thấy vậy Lạc Long Quân liền vung đao chém Ngư tinh thành 3 khúc. Đầu ngư tinh biến thành chó biển định chạy đi nhưng chàng nhanh tay dùng đá chặn lại và vứt lên một ngọn núi sau gọi là núi Cẩu Đầu Sơn. Phần thân trôi đến vùng Mạn Cẩu, gọi là Cẩu Đầu Thủy hiện nay, phần đuôi bị lột sạch da phủ lên một hoàn đảo giữ biển chính là đảo Bạch Long Vĩ.
Xong Lạc Long Quân đi tới vùng Long Biên. Tại đây đến tận tản viên được dân làng nói là có Hồ tinh. Con yêu tinh này thường biến thành dân thường đi dụ dỗ gái nhà lành về hang rồi hãm hại, người dân vô cùng lo sợ và có người phải bỏ làng đi. Chàng quyết tâm đi diệt Hồ tinh.
Vừa thấy bóng dáng ở cửa Hang chàng đã xông ngày tới, trận đánh diễn ra ba ngày ba đêm khiến yêu tinh suy yếu và muốn chạy. Nhưng chàng đuổi theo vung gươm chém đứt đầu. Chàng đi cứu người dân bị bắt và lệnh cho Thủy tộc dâng nước nhấn chìm hang. Về sau người ta gọi là đầm Xác cáo, đó là Tây Hồ ngày nay. Người dân lại yên ổn làm ăn và làm nhà ở vùng đất cao nhất gọi là làng Hồ. Đến đây bạn đã cuốn hút bởi sự tích con rồng cháu tiên chưa? Cùng theo dõi tiếp nhé.
Lạc Long Quân tiếp tục đi lên núi Phong Châu. Tại đây có một cái cây rất lâu năm cao nghìn thước, sau nhiều năm cây biến thành một con yêu tinh dân chúng thường gọi là Mộc tinh rất gian xảo và độc ác. Nó biến hóa thành nhiều dạng và ở không cố định một rừng nào, chuyên đuổi bắt người dân ăn thịt. Lúc này nghe tiếng đồn Lạc Long Quân đi tìm Mộc tinh. Trận chiến kéo dài hàng trăm tháng trời mà vẫn không giết được nó. Chàng phải sử dụng nhạc cụ trống, chiêng làm nó phải kinh hãi bỏ chạy đến vùng Tây Nam, người dân gọi là Quỷ Xương Cuồng.
Xong việc Lạc Long Quân dạy dân làng cách trồng lúa, nấu cơm, dùng gỗ xây nhà, tránh thú dữ thoát khỏi nghèo đói. Người dân xây cho chàng cung điện nhưng chàng không ở và xin về thủy cung quê mẹ. Chàng nói:
– Khi có tai ương gì hãy gõi ta, ta sẽ giúp.
Khi đó, phương Nam bị quân của Đế Lai từ phương Bắc xâm lược. Đến Lai có một cô gái vô vùng xinh đẹp tên là Âu Cơ. Họ đến Lĩnh Nam là thành đắp lũy. Người dân ở đây không chịu cảnh phục dịch bèn gọi Lạc Long Quân. Chàng biến thành một chàng trai khôi ngô tuấn tú có rất nhiều kẻ hầu người hạ đến gặp Đế Lai. Đến nơi chàng không gặp ai chỉ thấy có một cô gái vô cùng xinh đẹp và đó là Âu cơ. Nàng phải lòng Lạc Long Quân và theo chàng lên núi. Đế Lai sau không thấy con gái đâu bèn cho người đi tìm khắp nơi. Lạc Long Quân cho thú dữ chặn đường chặn hết các lối ra vào. Thấy vậy binh sĩ liền kinh hãi bỏ chạy, Đế Lai phải rút quân về phương Bắc.
Không lâu sau Âu Cơ sinh hạ một bọc trứng. Từ trăm quả trứng nở ra trăm chàng trai khôi ngô, khỏe mạnh và thông minh. Họ sống hạnh phúc bên nhau nhiều năm nhưng Lạc Long Quân nhớ thủy cung chàng từ biệt vợ và con biến thành rồng vụt bay ra biển. Sau một thời gian đằng đẵng trên núi chờ chồng nàng than:
– Bố của chúng nó ơi, sao chàng không về với vợ con?
Nghe thấy tiếng nàng chàng bèn quay trở về nhưng nàng trách:
– Tiểu thiếp vốn ở vùng núi cao vậy mà chàng bỏ đi lỡ để tiểu thiếp phải sống sầu khổ.
– Ta vốn là con rồng, nàng là tiên rất khó cùng nhau lâu dài. Nay ta mang 50 con xuống biển nàng cùng với 50 con ở trên núi trị vì. Nếu có biến cố gì xảy ra thì báo cho nhau biết.
Thế là họ từ biệt. Trăm người con trai đó chính là tổ tiên của người Việt. Con trai trưởng vùng Phong châu được tôn lên làm vua nước Văn Lang hiệu là Hùng Vương và các vị vua đời sau cũng lấy hiệu này. Đó chính là nguồn gốc con rồng cháu tiên của dân tộc ta
Thứ Sáu, 14 tháng 10, 2016
Truyện cổ tích: Sự tích chú Cuội cung trăng
Đã bao giờ các bé tự hỏi tại sao chú Cuội lại bay được lên tới tận mặt trăng và ở trên đó mãi không về?
Truyện kể từ rất xưa, có một người tiều phu tên gọi là Cuội. Một hôm, Cuội vào rừng đốn củi gần một con suối nhỏ thì giật mình thon thót khi gặp một cái hang cọp.
Phát hiện thấy trong hang chỉ có bốn con cọp con đang vờn nhau, Cuội liền xông tới dung rìu bổ mỗi con một nhát. Cả bốn con cọp ngã lăn ra đất chết không kịp ngáp.
Vừa lúc đó, cọp mẹ trở về hang. Thấy các con mình nằm chết trên mặt đất, cọp mẹ gầm rú vang cả núi rừng. Cuội hoảng sợ quẳng rìu trèo tót lên cây cao.
Nhìn từ trên xuống, Cuội thấy cọp mẹ đau đớn, lồng lộn bên xác chết của những đứa con mình. Sau đó, cọp mẹ lầm lũi tiến lại một gốc cây gần chỗ cuội đang ẩn náu, ngoặm một ít lá trở về nhai và mớm cho con.

Thật thần kỳ khi chỉ vài phút sau, bốn con cọp con đã vẫy đuôi sống lại, khiến cho Cuội vô cùng ngạc nhiên. Chờ cho cọp mẹ tha con đi nơi khác, Cuội mới lần xuống tìm đến cây lạ kia đào gốc vác về.
Đào được gốc cây quý, Cuội hăm hở trên đường trở về thì gặp một ông lão ăn mày nằm chết trên cỏ. Thấy vậy, Cuội bèn đặt gánh củi xuống, bứt mấy lá từ cây mới đào được nhai và mớm cho ông lão.
Cuội vừa mớm lá cây chưa được bao lâu, ông lão ăn mày đã mở mắt ngồi dậy và hỏi chuyện Cuội về gốc cây lạ kia. Khi nghe xong Cuội kể lại đầu đuôi câu chuyện, ông lão thốt lên sửng sốt:
- Trời ơi! Cây này chính là cây có phép "cải tử hoàn sinh" đây. Thật là trời cho con để cứu giúp thiên
Từ ngày có cây thuốc quý, Cuội cứu sống được rất nhiều người. Hễ nghe nói có ai sắp cận kề cái chết là Cuội lại tự nguyện mang lá cây đến tận nơi cứu chữa. Tiếng đồn rằng Cuội có phép lạ lan đi khắp nơi.
Một hôm, Cuội lội qua sông gặp xác một con chó chết trôi. Cuội vớt lên rồi giở lá trong mình ra cứu chữa cho chó sống lại. Kể từ đó, con chó luôn quấn quít theo Cuội như một người bạn.
Một lần khác, một lão nhà giàu ở làng bên hớt hải chạy đến tìm Cuội để nài nỉ cứu cho con gái mình vừa sẩy chân chết đuối. Cuội vui lòng theo về nhà, lấy lá chữa cho.
Chỉ một lát sau, mặt cô gái đang tái nhợt bỗng hồng hào hẳn lên, rồi sống lại. Thấy Cuội là người cứu sống mình, cô gái xin làm vợ chàng. Lão nhà giàu cũng vui lòng gả con cho Cuội.
Qua bao lâu sống hòa thuận, yên ổn thì bỗng nhiên một hôm khi Cuội vắng nhà, bọn giặc đã đi qua. Biết Cuội có phép cải tử hoàn sinh, chúng quyết tâm dung trò hiểm độc.
Giặc giết vợ Cuội, cố ý moi ruột người đàn bà này vứt xuống sông, rồi mới kéo nhau đi. Khi Cuội trở về thì vợ đã chết từ bao giờ. Cuội mớm bao nhiêu lá vẫn không công hiệu, vì người vợ đã không có ruột thì làm sao mà sống được.
Thấy chủ khóc lóc thảm thiết, con chó được Cuội cứu sống hồi nào lại gần xin hiến ruột mình thay vào ruột vợ chủ. Dù chưa từng làm việc này bao giờ nhưng trước tình cảnh éo le, Cuội cũng liều mượn ruột chó thay ruột người xem sao.
Quả nhiên, người vợ của Cuội sống lại và vẫn trẻ đẹp như xưa.Tuy nhiên, cũng từ đó tính nết vợ Cuội tự nhiên thay đổi hẳn. Hễ nói đâu là quên đó, làm cho Cuội nhiều khi rất bực mình.

Một buổi chiều, trong khi Cuội còn đi rừng kiếm củi chưa về, vợ Cuội ra vườn sau, không nhớ lời chồng dặn, cứ nhằm vào gốc cây quý mà tiểu tiện. Không ngờ chị ta vừa tiểu xong thì mặt đất chuyển động, cây đảo mạnh, gió thổi ào ào. Cây đa tự nhiên bật gốc, lừng lững bay lên trời.
Vừa lúc đó, Cuội gánh củi kiếm được về đến nhà. Thấy thế, Cuội hốt hoảng vứt gánh củi, nhảy bổ đến, toan níu cây lại. Nhưng cây lúc ấy đã rời khỏi mặt đất lên quá đầu người.
Trong lúc cấp bách, Cuội chỉ kịp móc rìu vào rễ cây, định lôi cây xuống, nhưng cây vẫn cứ bốc lên, không một sức nào cản nổi. Cuội cũng nhất định không chịu buông, thành thử cây kéo cả Cuội bay vút lên đến cung trăng.
Từ đấy Cuội ở luôn cung trăng với cả cái cây quý của mình. Nhìn lên mặt trăng, người ta thấy một vết đen rõ hình một cây cổ thụ có người ngồi dưới gốc, người ta gọi cái hình ấy là hình chú Cuội ngồi gốc cây đa....
Thứ Năm, 13 tháng 10, 2016
Bác Gấu đen và hai chú thỏ
Truyện ngụ ngôn mẹ kể bé nghe - Bác gấu đen và hai chú thỏ là một câu chuyện rất hay, ý nghĩa mà các mẹ nên kể cho các bé nghe. Câu chuyện về bác gấu và cách cư xử của 2 chú thỏ. Một cái kết tuyệt đẹp cho câu chuyện mà qua đó các bé có thể rút ra nhiều bài học,
Thứ Hai, 3 tháng 10, 2016
Sự tích cây vú sữa
Ngày xửa ngày xưa, trong một ngôi nhà nọ, người chồng mất sớm chỉ còn hai mẹ con sống bao bọc nhau. Người mẹ thương yêu và chăm sóc con hết mực, người mẹ chăm lo cho con từ miếng ăn hàng ngày cho tới những trò vui đùa của cậu bé.
Cũng chính vì được nuông chiều quá mức ngay từ thuở bé nên cậu bé sinh hư, hay làm phiền lòng người mẹ.
Một hôm, cậu nghịch ngợm, bị mẹ quát, cậu tức giận, liền vùng vằng bỏ đi vì nghĩ rằng mẹ không còn thương cậu nữa. Cậu chẳng hề nghĩ tới người mẹ đang mỏi mắt chờ mong ở nhà.

Cậu lang thang rất nhiều nơi, dân làng thấy cậu bé nhỏ đáng thương nên có người cho cậu cái bánh, cốc nước. Đêm đến, lúc thì cậu ngủ dưới gầm cầu, lúc co ro ở một góc chợ. Người mẹ ở nhà khóc thương vì nhớ con đã mờ cả mắt, người mẹ trách mình đã quát con để rồi không còn tìm thấy cậu, kiệt sức, mẹ cậu gục xuống bên bậc cửa ngôi nhà xưa cũ.
Còn cậu bé, không biết cậu đã đi bao lâu. Đến một hôm, vừa đói vừa rét, lại bị trẻ lớn bắt nạt, cậu ngồi bên gốc cây ven đường và bỗng thấy nhớ mẹ, nhớ về những ngày tháng được mẹ yêu thương, cưng chiều, được ăn những món ăn ngon, nằm ngủ trên chiếc giường êm bên vòng tay mẹ. Cậu nghĩ bụng: “Khi mình đói, mẹ vẫn cho mình ăn, khi mình bị đứa khác bắt nạt, mẹ vẫn bênh mình, mình phải quay về với mẹ thôi”.
Nghĩ vậy, cậu liền tìm đường về nhà. Cảnh vật ngôi nhà vẫn như xưa không hề thay đổi. Vẫn mái nhà tranh và khoảng sân rộng nơi cậu và mẹ vẫn chơi đùa cùng nhau khi xưa. Cậu khản tiếng gọi mẹ: “Mẹ ơi mẹ đâu rồi mẹ ơi?” cậu gọi mãi, gọi mãi không thấy ai trả lời, cậu gục xuống một cây xanh bên thềm và khóc. Kì lạ thay, cành cây bỗng rung mạnh, cây nghiêng cành, một trái to bỗng rơi vào lòng tay cậu bé, cậu cắn một miếng rất to. Cậu kêu lên một tiếng: “Chát quá”. lại một trái nữa rơi xuống, cậu lột vỏ và cắn vào hột của trái, cậu kêu lên: “Cứng quá”. tiếp theo lại có một trái nữa rơi xuống, cậu bóp men quanh trái lớp vỏ mềm dần dần nứt ra một khe hở nhỏ, một dòng sữa trắng sóng sánh tiết ra có vị thơm ngọt như sữa mẹ. Cậu hé miệng hứng những dòng sữa ngọt ngào, Bỗng, cây rung rinh, cành lá rì rào:
“Ăn trái ba lần mới biết được trái ngon
Con cái có ngoan mới biết được lòng cha mẹ”
Cậu nhận ra mẹ mình đã không còn nữa. Cậu bé ngẩng mặt nhìn lên tán lá, thấy lá một bên xanh bóng, còn mặt kia thì lại đỏ hoe như mắt mẹ khóc chờ con. Cậu bé bỗng nhận ra và òa khóc vì thương mẹ. Nhưng dù cậu có khóc bao nhiêu lâu thì mẹ cậu cũng mãi mãi không trở về, chỉ có cây xanh đang xòa cành ôm cậu, như tay mẹ âu yếm vỗ về. Cậu ân hận rất nhiều nhưng nhận ra đã quá muộn.
Trái cây thơm ngon ở vườn nhà cậu ai cũng thích. Họ đem về gieo trồng khắp nơi và gọi đó là cây Vú Sữa để nhớ về người mẹ của cậu bé thương con và chờ con trở về. Còn cậu bé, cậu cảm thấy có lỗi vì đã không biết quý trọng tình thương của mẹ giành cho mình. Giờ đây khi mẹ không còn nữa, cậu tự hứa sẽ chăm sóc bản thân tốt hơn, biết thương yêu mọi người xung quanh và chăm sóc cây thật tươi tốt.
Chủ Nhật, 2 tháng 10, 2016
CHÚ VỊT XÁM
Câu chuyện CHÚ VỊT XÁM là một bài học bổ ích cho các bé dễ nghe lời mẹ hơn.
Vịt mẹ dẫn Vịt con đi chơi. Trước khi đi, Vịt mẹ dặn:
- Các con phải đi theo mẹ, theo đàn, không được tách ra đi một mình mà con cáo ăn thịt đấy !
Đàn Vịt con vâng dạ rối rít.
Vừa ra khỏi cổng làng, chú Vịt Xám đã quên ngay lời mẹ dặn. Chú lẻn đi chơi một mình, lang thang hết nơi này đến nơi khác. Cuối cùng chú đến một cái ao có rất nhiều tôm cá. Đứng trên bờ nhìn xuống, chú thấy từng đàn cá, tôm bơi lội tung tăng dưới nước, thỉnh thoảng một con tôm cong mình nhảy tanh tách.
Thích quá, chú nhảy xuống mò lấy, mò để. Lúc ăn đã gần no, chú mới nhìn lên chẳng thấy Vịt mẹ đâu cả. Hoảng sơ, chú nhảy lên bờ gọi mẹ ầm ĩ : “Vít... vít... vít”. Gần đấy có một con cáo đang ngủ, nghe tiếng Vịt kêu, Cáo liền nhỏm dậy.
Nó lẩm bẩm
- Chà thịt vịt con ăn ngon lắm đấy ! Hôm nay mình sẽ được một bữa thịt vịt thật là ngon.
Nói rồi Cáo đi nhanh ra phía bờ ao. Khi Cáo vừa ra đến nơi thì cũng là lúc Vịt mẹ tìm thấy Vịt Xám. Trông thấy Cáo, Vịt mẹ vội dẫn Vịt Xám nhảy tùm xuống ao. Thế là Vịt Xám thoát chết.
Từ đấy Vịt Xám không bao giờ dám làm sai lời mẹ dặn.
Thứ Ba, 23 tháng 8, 2016
Sự tích trái thơm
Truyện cổ tích sự tích trái thơm là một trong những câu chuyện cảm động nói về người con gái Huyền Nương và mẹ của mình. Kể cho bé nghe giúp bé hiểu hơn về sự tích trái thơm nhé.
Là một trong những tập truyện cổ tích Việt Nam đặc sắc nhất Việt Nam. Truyện cổ tích sự tích trái thơm đã mang đến cho người học những bài học quý giá.
Hãy đọc ngay truyện cổ tích sự tích trái thơm dưới đây nhé.
Ngày xửa ngày xưa có một cô gái tên Huyền Nương. Cô chỉ thích ca hát nhưng không muốn làm thêm việc gì khác như thêu thùa, bếp núc.
Mẹ Huyền Nương mặc dù là góa phụ lại không giàu sang nhưng lại rất hay soi mói chuyện thiên hạ. Vì thế hai mẹ con đều không có được thiện cảm của bà con trong làng.
Bỗng nhiên, người mẹ mắc bệnh khiến Huyền Nương phải làm tất cả mọi việc nhà. Nàng phải nấu cháo, dọn dẹp nhà cửa, mọi việc bếp núc cô đều cảm thấy lung túng vì trước đây chưa làm bao giờ.
Vì vậy, động lấy cái gì là cô lại gọi:
– Mẹ ơi, gạo đâu rồi? Cái máy đánh lửa ở đâu ạ?
– Mẹ ơi, đổ từng này nước được chưa? Gàu múc đâu mất rồi mẹ ơi.
Sự tích trái thơm đến đây bạn đã đoán được gì chưa? Hãy cùng theo dõi tiếp để hiểu rõ hơn truyện sự tích trái thơm này nhé.
Mặc dù vô cùng mệt nhưng người mẹ bực mình bèn nói:
– Ước gì con mọc được nhiều mắt, cứ réo cả ngày điếc cả tai.
Nghe mẹ giận, Huyền Nương hỏi:
– Mẹ hết thương con rồi à?
Người mẹ chẳng nhìn con mà còn liên mồm càu nhàu:
– Thương cái gì, không có con cũng không sao.
Bỗng nhiên từ đâu đó vang lên khan khan.
– Điều ước của người mẹ vô tâm sẽ thành hiện thực
Lúc này bà mẹ mới vô cùng sợ hãi. Liền gượng dậy đi tìm con, tìm tất cả bếp và gọi thế nào cũng không thấy. Bà mẹ kêu:
– Huyền Nương! Con đâu rồi
Sau đó bà tiếp tục chạy đi tìm con, bà chỉ thấy đôi hài của Huyền Nương ở bụi cây. Từ bụi cây xuất hiện một trái rất kỳ lạ, thân dài, trong lại có nhiều mắt. Lại còn tỏa ra hương thơm rất nhẹ nhàng. Ngày nay người ta thường hay nói về truyện sự tích quả thơm.
Nước mắt bà trào ra khi cầm đôi hài và chạm tay vào trái lạ.
– Huyền Nương! Mẹ xin lỗi. Mẹ hiểu rồi.
Ngay sau đó trong trái phát ra tiếng khóc. Trái từ màu xanh thấm nước mắt của người mẹ liền chuyển vàng. Ngày ấy, người ta hay gọi là trái Huyền Nương nay gọi là trái thơm. Và từ đó người ta hay nói về truyện sự tích quả dứa hay còn gọi là truyện sự tích trái dứa.
Là một trong những tập truyện cổ tích Việt Nam đặc sắc nhất Việt Nam. Truyện cổ tích sự tích trái thơm đã mang đến cho người học những bài học quý giá.
Hãy đọc ngay truyện cổ tích sự tích trái thơm dưới đây nhé.
Ngày xửa ngày xưa có một cô gái tên Huyền Nương. Cô chỉ thích ca hát nhưng không muốn làm thêm việc gì khác như thêu thùa, bếp núc.
Mẹ Huyền Nương mặc dù là góa phụ lại không giàu sang nhưng lại rất hay soi mói chuyện thiên hạ. Vì thế hai mẹ con đều không có được thiện cảm của bà con trong làng.
Bỗng nhiên, người mẹ mắc bệnh khiến Huyền Nương phải làm tất cả mọi việc nhà. Nàng phải nấu cháo, dọn dẹp nhà cửa, mọi việc bếp núc cô đều cảm thấy lung túng vì trước đây chưa làm bao giờ.
Vì vậy, động lấy cái gì là cô lại gọi:
– Mẹ ơi, gạo đâu rồi? Cái máy đánh lửa ở đâu ạ?
– Mẹ ơi, đổ từng này nước được chưa? Gàu múc đâu mất rồi mẹ ơi.
Sự tích trái thơm đến đây bạn đã đoán được gì chưa? Hãy cùng theo dõi tiếp để hiểu rõ hơn truyện sự tích trái thơm này nhé.
Mặc dù vô cùng mệt nhưng người mẹ bực mình bèn nói:
– Ước gì con mọc được nhiều mắt, cứ réo cả ngày điếc cả tai.
Nghe mẹ giận, Huyền Nương hỏi:
– Mẹ hết thương con rồi à?
Người mẹ chẳng nhìn con mà còn liên mồm càu nhàu:
– Thương cái gì, không có con cũng không sao.
Bỗng nhiên từ đâu đó vang lên khan khan.
– Điều ước của người mẹ vô tâm sẽ thành hiện thực
Lúc này bà mẹ mới vô cùng sợ hãi. Liền gượng dậy đi tìm con, tìm tất cả bếp và gọi thế nào cũng không thấy. Bà mẹ kêu:
– Huyền Nương! Con đâu rồi
Sau đó bà tiếp tục chạy đi tìm con, bà chỉ thấy đôi hài của Huyền Nương ở bụi cây. Từ bụi cây xuất hiện một trái rất kỳ lạ, thân dài, trong lại có nhiều mắt. Lại còn tỏa ra hương thơm rất nhẹ nhàng. Ngày nay người ta thường hay nói về truyện sự tích quả thơm.
Nước mắt bà trào ra khi cầm đôi hài và chạm tay vào trái lạ.
– Huyền Nương! Mẹ xin lỗi. Mẹ hiểu rồi.
Ngay sau đó trong trái phát ra tiếng khóc. Trái từ màu xanh thấm nước mắt của người mẹ liền chuyển vàng. Ngày ấy, người ta hay gọi là trái Huyền Nương nay gọi là trái thơm. Và từ đó người ta hay nói về truyện sự tích quả dứa hay còn gọi là truyện sự tích trái dứa.
Thứ Bảy, 6 tháng 8, 2016
Truyện cổ tích Sự tích hạt lúa
Ngày xưa có 2 mẹ con sống cùng nhau trong một ngôi nhà nhỏ do người cha mất từ sớm. Vì vậy người mẹ hết sức yêu thương và chiều chuộng con, tần tảo làm việc sớm hôm để nuôi con khôn lớn, chỉ mong con hiếu thảo. Có gì ngon bà đều nhường cho con trai mình.
Thế nhưng cậu bé do được nuông chiều nên sinh hư, không có lòng yêu thương mẹ. Đến một ngày, người mẹ lâm bệnh nặng không qua khỏi, bạ gọi cậu bé đến và khuyên nhủ rang ngày mẹ mất sẽ có một hạt nhỏ màu vàng ở chỗ mẹ nằm, con hãy bỏ vào trong 1 chậu đất rồi đổ nước vào và đem vào tiến cung sẽ đổi được rất nhiều vàng bạc. Thế rồi người mẹ qua đời.
Sau khi mẹ mất, cậu con trai đã nghe theo lời mẹ dặn, cậu thấy một hạt màu vàng ngay dưới chỗ mẹ nằm bỏ vào một chậu đất, tưới nước rồi đi đến hoàng cung để đổi vàng bạc.
Đường từ nhà cậu đến hoàng cung rất xa, phải mất 6-7 tháng mới đến nơi, bao lương thực nước uống cậu chuẩn bị đều dần cạn kiệt. Đang trong lúc mệt mỏi, đói khát lại hết tiền, cậu đã phải đi xin ăn từng bữa và xin ngủ nhờ qua đêm.
Sau bao vất vả cậu mới chợt nhận ra được công lao to lớn của người mẹ trong việc nuôi nấng cậu bao lâu nay, vì vậy cậu bé đã rất hối hận vì đã không hiếu thảo, không nghe lời mẹ.
Khi tới Hoàng Cung, thật kỳ lạ thay trong chậu cây đó đã xuất hiện 1 nhanh cỏ trĩu nặng hạt có màu vàng cùng mùi thơm thoang thoảng, cho lên nấu thì có vị bùi bùi.
Vì quá nhớ thương mẹ, hiểu được công lao trời bể của mẹ nên cậu bé đã quyết định không đem hạt vào cung nữa mà đem về phát cho mọi người trong làng ăn và trồng nữa. Đó chính là sự tích hạt gạo.
Chủ Nhật, 31 tháng 7, 2016
Sự tích chim đa đa
Ngày xưa có một em bé mồ côi cha từ hồi còn nhỏ. Người mẹ sau một thời gian tang chế cũng đi lấy chồng. Vì bà con thân thích nội ngoại không còn ai nên nó phải theo mẹ về ở với bố ghẻ. Bố ghẻ tính rất vũ phu, coi cả hai mẹ con như kẻ ăn đứa ở. Nhất là thằng bé chưa biết làm gì cả, nên hắn lại càng ghét dữ. Nhiều lúc có việc trái ý, hắn đánh thằng bé thâm tím cả mình mẩy. Nhà hắn cũng không có gì. Hắn thường sinh nhai bằng cách lên rừng đốn củi. Người đàn bà vừa về với hắn được một ngày đã phải gánh củi của chồng đi bán ở chợ. Không may, năm đó trời làm mất mùa. Miếng ăn kiếm rất chật vật. Củi rẻ như bèo. Trước kia một gánh củi nuôi sống gia đình được mấy ngày thì bây giờ không đủ nuôi được một bữa. Thằng bé chưa làm được nghề ngỗng gì cả, trở nên một cái gai trước mắt bố ghẻ.
- Thằng bé này chỉ ăn hại đái nát. Chỉ làm cho ta khó khăn thêm.
Hắn bảo vợ thế và khuyên vợ đem con đi bán cho kẻ khác nuôi. Nhưng người đàn bà nhất quyết không chịu. Thà là cả hai mẹ con cùng chết chứ bà không đời nào chịu lìa con. Người bố ghẻ bèn có ý định muốn giết chết con riêng của vợ. Mạng người lúc này nhỏ bằng cái tơ cái tóc. Huống chi đối với hắn, hắn chẳng coi ra gì.
Nạn đói coi chừng đang kéo dài và ngày càng dữ dội. Một gánh củi lớn bây giờ không đổi nổi một bát gạo. Hôm đó, chờ lúc vợ đi chợ sớm, hắn đưa thằng bé lên rừng. Hắn rủ:
- Mày có muốn trèo ổi và bắt bướm không? Trên ấy thì tha hồ. Thằng bé nghe thế lấy làm thích, cố xin đi theo cho được. Cảnh rừng có nhiều cái lạ làm cho thằng bé lon ton chạy theo bố ghẻ không biết mệt. Người đàn ông đưa nó vào rừng sâu. Khi đến chỗ mấy cây ổi rừng, hắn bảo thằng bé:
- Ổi đấy. Và có bát cơm đây. Chốc nữa tao lại tìm.
Thế rồi hắn bỏ mặc thằng bé, lẳng lặng chui ra, đến một chỗ khác kiếm củi. Nhưng buổi chiều, khi bước chân vào nhà hắn lấy làm ngạc nhiên thấy thằng bé đã về trước hắn rồi. Số là thằng bé trong khi đang bơ vơ giữa rừng rậm thì may mắn gặp một bọn đi đào khoai mài về ngang. Thế là họ đưa nó về. Nhờ có bát cơm, nó vẫn đủ sức đi được đến nhà. Nghe đứa bé kể, hắn bực mình vô hạn. Hắn vờ mắng:
- Chỉ vì mày, làm tao tìm mãi không được!
Một lần khác hắn lại dỗ được đứa bé đi theo lên rừng. Lần này hắn cố tâm đưa nó vào thật sâu, đến những nơi chưa ai dám tìm vào hái củi bao giờ. Khi trốn khỏi thằng bé, hắn nghĩ bụng: "Không chết vì thú dữ thì cũng chết vì lạc, không chết vì lạc thì cũng chết đói mà thôi".
Mãi đến chiều tối vẫn không thấy bố ghẻ trở lại, thằng bé khóc lóc, kêu gào nhưng chỉ có tiếng vọng của núi rừng trả lời nó thôi. Nó cuống cuồng chạy tìm khắp mọi ngả nhưng không hề thấy một bóng người. Khi đã mệt lử và đói bụng, nó tìm đến chỗ bát cơm của bố ghẻ để lại thì không ngờ đấy là một bát cát trên có rắc một lớp cơm với một quả cà để đánh lừa. Thằng bé nhặt những hạt cơm phủi cát bỏ vào miệng. Cuối cùng đói quá, nó cầm lấy bát chạy khắp nơi và kêu lên: "Bố ghẻ ơi! Bát cát quả cà! Bát cát quả cà!" Nhưng tiếng kêu gào của nó chỉ làm cho một vài con chim rừng giật mình mà thôi. Rồi thằng bé chết, hóa thành chim đa đa, luôn luôn kêu những tiếng "Bát cát quả cà! Bát cát quả cà!"
Đợi mãi không thấy con về, người đàn bà khóc thương vô hạn. Đoán biết thằng chồng tàn bạo đã ám hại con mình, bà ta đứng lên xỉa xói vào mặt hắn. Cuối cùng bà ta bắt hắn phải đi kiếm con mình về ngay, nếu không sẽ lên quan tố cáo. Túng thế hắn phải vào rừng. Hắn tìm mãi. Đột nhiên trong khu rừng hẻo lánh nổi lên mấy tiếng "Bát cát quả cà". Hắn rụng rời. Đích thị là oan hồn thằng bé đã lên tiếng vạch tội ác của hắn. Nghe luôn mấy tiếng liên tiếp, hắn không còn hồn vía nào nữa, vội bỏ chạy. Nhưng mấy tiếng "Bát cát quả cà" đuổi theo hắn. Hắn chạy mãi, băng hết khu rừng nọ sang khu rừng kia. Tự nhiên hắn vấp phải đá ngã xuống bất tỉnh nhân sự. Mấy ngày sau, những người tiều phu thấy thi thể hắn nằm vật ở mé rừng.
- Thằng bé này chỉ ăn hại đái nát. Chỉ làm cho ta khó khăn thêm.
Hắn bảo vợ thế và khuyên vợ đem con đi bán cho kẻ khác nuôi. Nhưng người đàn bà nhất quyết không chịu. Thà là cả hai mẹ con cùng chết chứ bà không đời nào chịu lìa con. Người bố ghẻ bèn có ý định muốn giết chết con riêng của vợ. Mạng người lúc này nhỏ bằng cái tơ cái tóc. Huống chi đối với hắn, hắn chẳng coi ra gì.
Nạn đói coi chừng đang kéo dài và ngày càng dữ dội. Một gánh củi lớn bây giờ không đổi nổi một bát gạo. Hôm đó, chờ lúc vợ đi chợ sớm, hắn đưa thằng bé lên rừng. Hắn rủ:
- Mày có muốn trèo ổi và bắt bướm không? Trên ấy thì tha hồ. Thằng bé nghe thế lấy làm thích, cố xin đi theo cho được. Cảnh rừng có nhiều cái lạ làm cho thằng bé lon ton chạy theo bố ghẻ không biết mệt. Người đàn ông đưa nó vào rừng sâu. Khi đến chỗ mấy cây ổi rừng, hắn bảo thằng bé:
- Ổi đấy. Và có bát cơm đây. Chốc nữa tao lại tìm.
Thế rồi hắn bỏ mặc thằng bé, lẳng lặng chui ra, đến một chỗ khác kiếm củi. Nhưng buổi chiều, khi bước chân vào nhà hắn lấy làm ngạc nhiên thấy thằng bé đã về trước hắn rồi. Số là thằng bé trong khi đang bơ vơ giữa rừng rậm thì may mắn gặp một bọn đi đào khoai mài về ngang. Thế là họ đưa nó về. Nhờ có bát cơm, nó vẫn đủ sức đi được đến nhà. Nghe đứa bé kể, hắn bực mình vô hạn. Hắn vờ mắng:
- Chỉ vì mày, làm tao tìm mãi không được!
Một lần khác hắn lại dỗ được đứa bé đi theo lên rừng. Lần này hắn cố tâm đưa nó vào thật sâu, đến những nơi chưa ai dám tìm vào hái củi bao giờ. Khi trốn khỏi thằng bé, hắn nghĩ bụng: "Không chết vì thú dữ thì cũng chết vì lạc, không chết vì lạc thì cũng chết đói mà thôi".
Mãi đến chiều tối vẫn không thấy bố ghẻ trở lại, thằng bé khóc lóc, kêu gào nhưng chỉ có tiếng vọng của núi rừng trả lời nó thôi. Nó cuống cuồng chạy tìm khắp mọi ngả nhưng không hề thấy một bóng người. Khi đã mệt lử và đói bụng, nó tìm đến chỗ bát cơm của bố ghẻ để lại thì không ngờ đấy là một bát cát trên có rắc một lớp cơm với một quả cà để đánh lừa. Thằng bé nhặt những hạt cơm phủi cát bỏ vào miệng. Cuối cùng đói quá, nó cầm lấy bát chạy khắp nơi và kêu lên: "Bố ghẻ ơi! Bát cát quả cà! Bát cát quả cà!" Nhưng tiếng kêu gào của nó chỉ làm cho một vài con chim rừng giật mình mà thôi. Rồi thằng bé chết, hóa thành chim đa đa, luôn luôn kêu những tiếng "Bát cát quả cà! Bát cát quả cà!"
Đợi mãi không thấy con về, người đàn bà khóc thương vô hạn. Đoán biết thằng chồng tàn bạo đã ám hại con mình, bà ta đứng lên xỉa xói vào mặt hắn. Cuối cùng bà ta bắt hắn phải đi kiếm con mình về ngay, nếu không sẽ lên quan tố cáo. Túng thế hắn phải vào rừng. Hắn tìm mãi. Đột nhiên trong khu rừng hẻo lánh nổi lên mấy tiếng "Bát cát quả cà". Hắn rụng rời. Đích thị là oan hồn thằng bé đã lên tiếng vạch tội ác của hắn. Nghe luôn mấy tiếng liên tiếp, hắn không còn hồn vía nào nữa, vội bỏ chạy. Nhưng mấy tiếng "Bát cát quả cà" đuổi theo hắn. Hắn chạy mãi, băng hết khu rừng nọ sang khu rừng kia. Tự nhiên hắn vấp phải đá ngã xuống bất tỉnh nhân sự. Mấy ngày sau, những người tiều phu thấy thi thể hắn nằm vật ở mé rừng.
Thứ Năm, 14 tháng 7, 2016
Chú bé chăn cừu và bài học đáng nhớ

(Doctruyenngan.mobi) – Một chú bé chăn cừu cho chủ thả cừu gần một khu rừng rậm cách làng không xa lắm. Chăn cừu được ít lâu, chú cảm thấy công việc chăn cừu thực là nhàm chán. Tất cả mọi việc chú có thể làm để giải khuây là nói chuyện với con chó hoặc thổi chiếc sáo chăn cừu của mình.
Một hôm, trong lúc đang ngắm nhìn đàn cừu và cánh rừng yên tĩnh chú bé chợt nhớ tới lời chủ của chú từng dặn rằng khi sói tấn công cừu thì phải kêu cứu để dân làng nghe thấy và đánh đuổi nó đi.
Thế là chú nghĩ ra một trò chơi cho đỡ buồn. Mặc dù chẳng thấy con sói nào, chú cứ chạy về làng và la to:
– Sói ! Sói !

Đúng như chú nghĩ, dân làng nghe thấy tiếng kêu bỏ cả việc làm và tức tốc chạy ra cánh đồng. Nhưng khi đến nơi, họ chẳng thấy sói đâu, chỉ thấy chú bé ôm bụng cười ngặt nghẽo vì đã lừa được họ.
Ít ngày sau chú bé chăn cừu lần nữa lại la lên:
– “Sói ! Sói !”.
Và một lần nữa dân làng lại chạy ra giúp chú. Nhưng họ lại chẳng thấy con sói nào, chỉ thấy chú bé chăn cừunghịch ngợm ôm bụng cười khoái chí.

Đọc truyện cổ tích – Chú bé chăn cừu và bài học đáng quý
Thế rồi vào một buổi chiều nọ, khi mặt trời lặn xuống sau cánh rừng và bóng tối bắt đầu phủ đầy lên cánh đồng, một con sói thực sự xuất hiện. Nó nấp sau bụi cây rình bắt những con cừu béo non. Bỗng sói phóng vút ra chộp lấy một chú cừu tội nghiệp. Thấy sói cả đàn cừu sợ hãi chạy toán loạn, chú bé chăn cừu cũng hoảng loạn vô cùng.
Quá hoảng sợ, chú bé chăn cừu vội chạy về làng và la to:
– “Sói ! Sói !”.

Nhưng mặc dù dân làng có nghe tiếng chú kêu, không một ai chạy ra để giúp chú như những lần trước cả. Vì mọi người nghĩ chú lại bày trò nói dối như trước.
Thế là sói thỏa sức bắt mồi, giết chết rất nhiều cừu của chú bé. Sau khi đã chén no nê, nó biến mất vào rừng rậm. Chú bé buồn bã ngồi giữa đồng cỏ, lòng đầy hối hận về hành động nói dối của mình và hậu quả của trò đùa dại dột gây ra.

Câu chuyện “Chú bé chăn cừu và bài học đáng nhớ” đến đây là hết rồi. Qua câu chuyện chúng mình thấy nói dối là rất xấu đúng không các em. Người hay nói dối ngay cả khi nói thật cũng không ai tin đâu. Hi vọng rằng qua đây các em đã rút ra cho mình một bài học đáng quý.
Thứ Tư, 13 tháng 7, 2016
Ông tướng gầy
Thuở xưa có một người thợ rừng lực lưỡng khoẻ mạnh. Cái rìu cái búa thông thường anh cầm lỏng tay, phải thuê thợ rèn đánh to bằng hai bàn tay xoè, dùng mới vừa sức. Cây gỗ to bằng thân người, anh chỉ đẵn bốn nhát là xong; còn những cây cổ thụ to bằng bánh xe trâu, bằng cái nong, cái nia, anh chặt một ngày cũng được vài mươi khúc. Tính ra số gỗ anh đẵn được, từ ngày mới biết vác rìu vào rừng đến giờ, cũng đủ dựng nhà cho ba làng, bảy xóm, chín mười ngôi đền, ngôi miếu. Nhưng ngôi nhà vợ chồng anh thì chỉ vừa lọt cái giường, chiếc chiếu. Ngôi nhà thấp đến nỗi anh ra vào thì đầu đụng nóc, vai chạm kèo. Vì nhà anh quá nghèo, vợ lại hay ốm đau, nên đẵn được bao nhiêu gỗ anh đều phải bán rẻ mới kịp mua thuốc cho vợ, mua gạo cho mình. Vì vậy người vợ thường phàn nàn:
- Mình có đốn hết gỗ trong rừng cũng chẳng “đủ” làm một cái nhà ba gian.
Người thợ rừng cũng biết đời mình không sao tránh khỏi điều vợ lo. Nhưng không có cách nào thoát được cảnh bữa sáng lo bữa chiều. Lúc vợ có chửa được bảy tháng, anh thợ rừng đi đốn gỗ về đóng cho vợ một cái giường. Cây gỗ không to, anh mới chặt ba nhát búa mà nó đã chuyển mình sắp ngã. Không may, một luồng gió thổi đến rất mạnh, cây gỗ ngã trái chiều. Anh thợ rừng tránh không kịp, bị gỗ đè gẫy cả hai tay. Thế là mọi việc đều đổ lên đầu người vợ ốm, đang có mang. Chị chạy khắp đầu làng cuối xóm vay mượn về nuôi chồng. Nhưng bạn nghèo thì không có, còn người có của thì chẳng thương người nghèo. Vợ người thờ rừng phải ra sông bắt hến nuôi chồng bữa cháo bữa rau. Nước sông khá sâu, chị phải ngâm mình dướin nước cả ngày mới bắt được một bữa hến.
Một hôm, trời mưa trên nguồn rất lớn, chị đang lăn ngụp giữa sông thị nước nguồn về cuốn chị đi. May sao, chị vớ được một cây chuối lở gốc trôi giữa dòng mới thoát chết, nhưng về đến nhà thì chị đẻ. Nhà anh thợ rừng càng khổ cực hơn, chồng không làm gì được, vợ ốm nặng, đức con trai đẻ thiếu tháng không lúc nào được bú no sữa mẹ. Thằng bé không chết nhưng càng lớn càng gầy còm; mãi đến năm mười bảy tuổi mà người khẳng khiu như cái gậy, xương bọc da, đầu gối to hơn bắp đùi. Khi ngồi đầu gối cao quá vai, tóc trên đầu thưa như lông chân, người lùng nhùng, khi đã ngồi xuống rồi thì không muốn đứng lên. Vợ chồng anh thợ rừng thương con, nên dù nhà nghèo nhưng không bắt con làm gì. Họ đặt tên cho con là Gầy.
Một hôm, Gầy cầm cần câu ra sân ngồi dưới một gốc cây sung câu cá. Gặp hôm cá cắn, mới ngồi chưa nóng chỗ mà em đã câu được mấy con cá to. Đói ăn đã lâu, thấy mấy con cá tươi ngon, em liền lấy củi nhóm lửa tại gốc sung nướng cá ăn. Lúc ấy mặt trời lên được nửa buổi, gió thổi mạnh hắt bóng ngọn lửa xuống dòng sông, một con cá con ở dưới nước vọt lên nhìn, bị con chim bói cá rình trên cây đớp được. Sẵn củi để bên, Gầy ném con chim; con chim bay vù đi thả con cá rơi lại xuống sông.
Sáng hôm sau, em lại cầm cần ra chỗ cũ ngồi câu cá, nhưng vừa đến đã thấy ai bày sẵn dưới gốc cây một con cá nướng to bằng bắp chân và một rá cơm trắng. Mùi cá tươi, cơm nóng thơm nức mũi, tuy chẳng biết là của ai, nhưng từ bé đến giờ chưa bữa nào được ăn ngon như thế, nên Gầy quên câu, ngồi sà xuống ăn một mạch hết con cá nướng và rá cơm. Ăn xong, em vốc nước lên uống thì nghe tiếng người giữa sông nói lên:
- Người đã ăn hết cơm hết cá, vậy là ta đã trả được ơn...
Gầy ngơ ngác nhìn ra thì thấy một việc kì lạ - một vật nửa trên là người, nửa dưới là cá nhô lên khỏi mặt nước giữa sông và nói:
- Ta là Thuỷ thần. Hôm qua con ta đi chơi trông thấy ngọn lửa chiếu xuống, nó nhảy lên xem thì bị loài chim dữ bắt được. Nhờ có ngươi đánh con chim dữ ấy, con ta mới thoát chết. Nay ta đền ơn... người cứ lên khỏi đây sẽ biết.
Em Gầy lóp ngóp chạy lên bờ, đầu chạm phải gốc sung, gốc sung vẹo sang một bên. Một sức mạnh kì lạ đã làm cho em Gầy khoẻ lên vạn lần. Em béo lên, thịt căng ra, mắt sáng, tay chân cứng bóp không lún, tóc dày và cứng như rễ tre. Em gầy chạy một mạch về nhà. Vui mừng qua, em nhảy múa reo hò, rồi vớ lấy cái rìu của cha chém đông, chém tây, chém tả, chém hữu. Chiếc rìu nặng thế mà em cầm nhẹ như chiếc đũa bếp. Cái rìu của cha đối với em bây giờ bé nhỏ quá rồi. Nên em phải rèn một cái lưỡi rìu to bằng bốn bàn tay xoè thì mới vừa tay. Thế rồi, hàng ngày Gầy vác rìu vào rừng đẵn gỗ để nuôi cha mẹ.
Năm ấy nhà vua xây dựng nhiều cung điện. Vua thuê rất nhiều thợ rừng đi đốn gỗ. Gầy xin nhập bọn thợ. Với sức khoẻ và lưỡi rìu to ấy, mỗi ngày em đẵn không biết là bao nhiêu gỗ lim, gỗ trác, gỗ mun, cây nào cũng to như cái nong, cái nia. Nhưng thấy Gầy ít tuổi, bọn thợ rừng bắt nạt, chúng ngồi chơi, hoặc chui vào bóng râm ngủ một ngày, rồi lấy gỗ của Gầy bán được đem chia nhau, chỉ cho Gầy một phần ít. Nên Gầy đẵn gỗ giỏi hơn cha gấp mười lần mà vẫn không đủ nuôi cha mẹ.
Thuê đẵn gỗ xong, vua dựng đền. Ngôi đền toàn gỗ quý, cột cái to bằng cái nong, cột con bằng cái nia, xà ngang xà dọc dài hàng chục sải tay, to đến vài người ôm không xuể. Dựng cột dựng kèo xong, còn cây đòn dông to hơn cái bánh xe trâu, được ghép lại bằng năm cây gỗ lim, dài đến hơn hai mươi sải tay, nên tất cả phường thợ, cả quân lính trong triều ra giúp sức vẫn không sao đặt nổi lên ngàm cái vì kèo. Phường thợ lại cho người đến cầu khẩn Gầy. Gầy đến xin vua cho ăn một bữa cơm. Vua ra lệnh nấu một thùng gạo tẻ, một vạc canh và một con dê luộc. Ăn xong, Gầy vác hẳn một đầu cây đòn dông đặt lên vì kéo. Đặt xong một bên, Gầy đến xốc bên kia lên vai, bước theo các bậc đá đặt nốt lên. Cây đòn dông to, dài hai mươi sải, cả phường lính hì hục cả tháng không đặt lên được, còn Gầy chỉ làm chưa nhai dập miếng trầu đã xong. Vua thưởng cho Gầy ba xe lúa, bảy vò mắm và chín con dê. Gầy đem tất cả những thứ ấy về nuôi cha mẹ.
Vua có một cô công chúa mặt đẹp như tranh, da trắng như ngà. Nhiều hoàng tử, vua chúa các nước đều đến hỏi làm vợ. Trước bao nhiêu người quyền cao chức trọng, giàu có như nhau, vua chưa biết nên gả cho ai, cô công chúa cũng chưa biết chọn ai. Nhưng các vua, các hoàng tử kia thì sợ mất phần, nên cũng đem quân đến đánh, cướp cô công chúa. Đất nước ngập khói ngập lửa, đâu đâu cũng có giặc. Giặc Đông, giặc Tây, giặc hô hét ở phía Nam, giặc tung hoành ở phía Bắc. Nhà vua cuống cuồng, quan văn quan võ đều run sợ, ai cũng mang vợ con đi trốn chứ chẳng ai dám ra chống giặc. Gầy liền vác rìu lên rừng đẵn một cây gỗ lim to bằng cái nia, dài chín sải, vác đi đánh giặc. Chân của Gầy bây giờ khoẻ mạnh như chân voi, đi đến đâu giặc chạy tan tác đến đó. Gầy đi từ Nam ra Bắc, vác gậy lao thẳng vào giữa quân giặc mà quật. Cây gỗ của Gầy quật xuống một nhát, quân giặc chết có đến nghìn người. Xác giặc chết như trâu, đứa chưa chết thì lạy lục xin tha, đứa ở xa thì đều cắm đầu cắm cổ chạy. Gầy đánh tan được giặc ở phía Nam, phía Bắc, thì lũ giặc phía Đông phía Tây đã rùng mình. Sợ sức khỏe kì lạ của Gầy, chúng dẫn nhau chạy hết về nước.
Gầy có công lớn, được vua rước về gả công chúa, phong cho làm tướng. Bọn vua và bọn công tử các nước nghe con anh thợ rừng cưới được công chúa thì tức đến vỡ mặt, nhưng sợ oai ông tướng Gầy, chẳng ai dám bén mảng đến nửa. Từ đó, nhà người thợ rừng mới hết khổ.
- Mình có đốn hết gỗ trong rừng cũng chẳng “đủ” làm một cái nhà ba gian.
Người thợ rừng cũng biết đời mình không sao tránh khỏi điều vợ lo. Nhưng không có cách nào thoát được cảnh bữa sáng lo bữa chiều. Lúc vợ có chửa được bảy tháng, anh thợ rừng đi đốn gỗ về đóng cho vợ một cái giường. Cây gỗ không to, anh mới chặt ba nhát búa mà nó đã chuyển mình sắp ngã. Không may, một luồng gió thổi đến rất mạnh, cây gỗ ngã trái chiều. Anh thợ rừng tránh không kịp, bị gỗ đè gẫy cả hai tay. Thế là mọi việc đều đổ lên đầu người vợ ốm, đang có mang. Chị chạy khắp đầu làng cuối xóm vay mượn về nuôi chồng. Nhưng bạn nghèo thì không có, còn người có của thì chẳng thương người nghèo. Vợ người thờ rừng phải ra sông bắt hến nuôi chồng bữa cháo bữa rau. Nước sông khá sâu, chị phải ngâm mình dướin nước cả ngày mới bắt được một bữa hến.
Một hôm, trời mưa trên nguồn rất lớn, chị đang lăn ngụp giữa sông thị nước nguồn về cuốn chị đi. May sao, chị vớ được một cây chuối lở gốc trôi giữa dòng mới thoát chết, nhưng về đến nhà thì chị đẻ. Nhà anh thợ rừng càng khổ cực hơn, chồng không làm gì được, vợ ốm nặng, đức con trai đẻ thiếu tháng không lúc nào được bú no sữa mẹ. Thằng bé không chết nhưng càng lớn càng gầy còm; mãi đến năm mười bảy tuổi mà người khẳng khiu như cái gậy, xương bọc da, đầu gối to hơn bắp đùi. Khi ngồi đầu gối cao quá vai, tóc trên đầu thưa như lông chân, người lùng nhùng, khi đã ngồi xuống rồi thì không muốn đứng lên. Vợ chồng anh thợ rừng thương con, nên dù nhà nghèo nhưng không bắt con làm gì. Họ đặt tên cho con là Gầy.
Một hôm, Gầy cầm cần câu ra sân ngồi dưới một gốc cây sung câu cá. Gặp hôm cá cắn, mới ngồi chưa nóng chỗ mà em đã câu được mấy con cá to. Đói ăn đã lâu, thấy mấy con cá tươi ngon, em liền lấy củi nhóm lửa tại gốc sung nướng cá ăn. Lúc ấy mặt trời lên được nửa buổi, gió thổi mạnh hắt bóng ngọn lửa xuống dòng sông, một con cá con ở dưới nước vọt lên nhìn, bị con chim bói cá rình trên cây đớp được. Sẵn củi để bên, Gầy ném con chim; con chim bay vù đi thả con cá rơi lại xuống sông.
Sáng hôm sau, em lại cầm cần ra chỗ cũ ngồi câu cá, nhưng vừa đến đã thấy ai bày sẵn dưới gốc cây một con cá nướng to bằng bắp chân và một rá cơm trắng. Mùi cá tươi, cơm nóng thơm nức mũi, tuy chẳng biết là của ai, nhưng từ bé đến giờ chưa bữa nào được ăn ngon như thế, nên Gầy quên câu, ngồi sà xuống ăn một mạch hết con cá nướng và rá cơm. Ăn xong, em vốc nước lên uống thì nghe tiếng người giữa sông nói lên:
- Người đã ăn hết cơm hết cá, vậy là ta đã trả được ơn...
Gầy ngơ ngác nhìn ra thì thấy một việc kì lạ - một vật nửa trên là người, nửa dưới là cá nhô lên khỏi mặt nước giữa sông và nói:
- Ta là Thuỷ thần. Hôm qua con ta đi chơi trông thấy ngọn lửa chiếu xuống, nó nhảy lên xem thì bị loài chim dữ bắt được. Nhờ có ngươi đánh con chim dữ ấy, con ta mới thoát chết. Nay ta đền ơn... người cứ lên khỏi đây sẽ biết.
Em Gầy lóp ngóp chạy lên bờ, đầu chạm phải gốc sung, gốc sung vẹo sang một bên. Một sức mạnh kì lạ đã làm cho em Gầy khoẻ lên vạn lần. Em béo lên, thịt căng ra, mắt sáng, tay chân cứng bóp không lún, tóc dày và cứng như rễ tre. Em gầy chạy một mạch về nhà. Vui mừng qua, em nhảy múa reo hò, rồi vớ lấy cái rìu của cha chém đông, chém tây, chém tả, chém hữu. Chiếc rìu nặng thế mà em cầm nhẹ như chiếc đũa bếp. Cái rìu của cha đối với em bây giờ bé nhỏ quá rồi. Nên em phải rèn một cái lưỡi rìu to bằng bốn bàn tay xoè thì mới vừa tay. Thế rồi, hàng ngày Gầy vác rìu vào rừng đẵn gỗ để nuôi cha mẹ.
Năm ấy nhà vua xây dựng nhiều cung điện. Vua thuê rất nhiều thợ rừng đi đốn gỗ. Gầy xin nhập bọn thợ. Với sức khoẻ và lưỡi rìu to ấy, mỗi ngày em đẵn không biết là bao nhiêu gỗ lim, gỗ trác, gỗ mun, cây nào cũng to như cái nong, cái nia. Nhưng thấy Gầy ít tuổi, bọn thợ rừng bắt nạt, chúng ngồi chơi, hoặc chui vào bóng râm ngủ một ngày, rồi lấy gỗ của Gầy bán được đem chia nhau, chỉ cho Gầy một phần ít. Nên Gầy đẵn gỗ giỏi hơn cha gấp mười lần mà vẫn không đủ nuôi cha mẹ.
Thuê đẵn gỗ xong, vua dựng đền. Ngôi đền toàn gỗ quý, cột cái to bằng cái nong, cột con bằng cái nia, xà ngang xà dọc dài hàng chục sải tay, to đến vài người ôm không xuể. Dựng cột dựng kèo xong, còn cây đòn dông to hơn cái bánh xe trâu, được ghép lại bằng năm cây gỗ lim, dài đến hơn hai mươi sải tay, nên tất cả phường thợ, cả quân lính trong triều ra giúp sức vẫn không sao đặt nổi lên ngàm cái vì kèo. Phường thợ lại cho người đến cầu khẩn Gầy. Gầy đến xin vua cho ăn một bữa cơm. Vua ra lệnh nấu một thùng gạo tẻ, một vạc canh và một con dê luộc. Ăn xong, Gầy vác hẳn một đầu cây đòn dông đặt lên vì kéo. Đặt xong một bên, Gầy đến xốc bên kia lên vai, bước theo các bậc đá đặt nốt lên. Cây đòn dông to, dài hai mươi sải, cả phường lính hì hục cả tháng không đặt lên được, còn Gầy chỉ làm chưa nhai dập miếng trầu đã xong. Vua thưởng cho Gầy ba xe lúa, bảy vò mắm và chín con dê. Gầy đem tất cả những thứ ấy về nuôi cha mẹ.
Vua có một cô công chúa mặt đẹp như tranh, da trắng như ngà. Nhiều hoàng tử, vua chúa các nước đều đến hỏi làm vợ. Trước bao nhiêu người quyền cao chức trọng, giàu có như nhau, vua chưa biết nên gả cho ai, cô công chúa cũng chưa biết chọn ai. Nhưng các vua, các hoàng tử kia thì sợ mất phần, nên cũng đem quân đến đánh, cướp cô công chúa. Đất nước ngập khói ngập lửa, đâu đâu cũng có giặc. Giặc Đông, giặc Tây, giặc hô hét ở phía Nam, giặc tung hoành ở phía Bắc. Nhà vua cuống cuồng, quan văn quan võ đều run sợ, ai cũng mang vợ con đi trốn chứ chẳng ai dám ra chống giặc. Gầy liền vác rìu lên rừng đẵn một cây gỗ lim to bằng cái nia, dài chín sải, vác đi đánh giặc. Chân của Gầy bây giờ khoẻ mạnh như chân voi, đi đến đâu giặc chạy tan tác đến đó. Gầy đi từ Nam ra Bắc, vác gậy lao thẳng vào giữa quân giặc mà quật. Cây gỗ của Gầy quật xuống một nhát, quân giặc chết có đến nghìn người. Xác giặc chết như trâu, đứa chưa chết thì lạy lục xin tha, đứa ở xa thì đều cắm đầu cắm cổ chạy. Gầy đánh tan được giặc ở phía Nam, phía Bắc, thì lũ giặc phía Đông phía Tây đã rùng mình. Sợ sức khỏe kì lạ của Gầy, chúng dẫn nhau chạy hết về nước.
Gầy có công lớn, được vua rước về gả công chúa, phong cho làm tướng. Bọn vua và bọn công tử các nước nghe con anh thợ rừng cưới được công chúa thì tức đến vỡ mặt, nhưng sợ oai ông tướng Gầy, chẳng ai dám bén mảng đến nửa. Từ đó, nhà người thợ rừng mới hết khổ.
Anh chàng nghèo khổ
Ngày xưa có hai mẹ con nhà nọ nghèo rớt mồng tơi, anh chàng lang thang đi kiếm việc làm nhưng chả có ai cho thuê cả. Mãi sau, có một chủ thuyền buôn thấy anh khoẻ mạnh, lại biết bơi lội mới thuê anh về làm thuỷ thủ, hắn hứa cho anh cơm một ngày ba bữa và một năm bốn mươi quan tiền trả trước. Anh chàng tưởng không có nỗi mừng nào hơn thế nữa, vội cầm ba mươi quan về cho mẹ tiêu, còn mười quan thì mang theo định để dành may mặc.
Thuyền cất hàng, vượt biển luôn năm ngày đến một thị trấn lớn. Trên bến người mua kẻ bán chen chúc như hội. Bọn thuỷ thủ bảo chàng:
- Ở đây buôn thứ gì cũng được. Cứ mua một ít đưa về quê nhà bán là tự khắc có lãi.
Anh chàng xưa nay không quen buôn nên cầm mười quan tiền trong tay, chưa biết nên mua thứ hàng gì. Bỗng chốc, anh thấy có một người mang ra bến một con chó bị trói toan vứt xuống sông. Lấy làm thương, anh vội ngăn lại và hỏi duyên cớ. Người ấy cho biết chó này là của chủ mình. Hôm nay chủ đi chợ mua thịt dọn tiệc, không rõ cất đặt thế nào để chó ăn vụng mất cả. Chủ tức giận trói chó đánh một trận thừa sống thiếu chết rồi sai đi bỏ sông. Nghe kể thế, anh chàng xin mua lại con chó. Người kia cười mà rằng:
- Nó chỉ chuyên môn ăn vụng, anh mua về làm gì?
Chàng nghèo đáp:
- Thây kệ, cứ bán nó cho tôi đi!
Cuối cùng anh chàng xỉa ra ba quan mua lại con chó. Anh cởi trói cho nó rồi xích lại bên chỗ mình làm việc.
Sau đó một chốc, anh lại trông thấy có một người đàn bà mang một con mèo toan vứt xuống sông. Anh chàng vội ngăn lại và hỏi duyên cớ. Khi biết tội trạng của mèo cũng chỉ là ăn vụng, anh nài nỉ để con vật lại cho mình. Thấy người đàn bà khuyên không nên mua thứ mèo xấu nết, anh không nghe và nói:
- Thây kệ! Chị cứ bán cho tôi đi!
Thế là cuối cùng mèo cũng thoát chết. Và người chủ mới của nó sau khi xỉa ra ba quan để mua, đem buộc lại gần bên con chó. Ngồi một mình trên thuyền, thấy buồn, anh chàng bèn bỏ thuyền lên bộ đi dạo bờ sông. Bỗng chốc anh thấy có ba đứa trẻ chăn trâu bắt được một con rắn nước, toan dùng roi xử tội. Anh chàng vội chạy lại ngăn cản:
- Các em đừng đánh nó, nó là rắn nước, có làm hại ai đâu?
- "Mặc kệ chúng tôi" - bọn trẻ đáp, rồi lại tiếp: "Chúng tôi bắt được nó, chúng tôi đánh, ông cản làm gì?"
Thấy bọn chúng khăng khăng cố tình giết rắn, anh chàng lại dùng tiền để cứu con vật vô tội. Chúng đòi năm quan. Mãi sau anh mới bớt được một. Thế là tất cả số tiền mang theo lần lượt vơi đến hết. Mua được con rắn, anh vội thả xuống sông cho nó trở về xứ sở. Bọn thuỷ thủ khi nghe anh kể lại những việc mua bán của mình, thì đều cười ngất, cho là một người khờ dại ít có. Anh chỉ ngồi lặng yên, không nói gì cả.
Khi thuyền bắt đầu trở về vào khoảng nửa đêm, anh đang chèo bỗng thấy con rắn nước từ dưới sông bơi lên trao cho mình một viên ngọc mà nói:
- Cha tôi là Long Vương cảm ơn anh cứu mạng tôi, cho tôi đem biếu anh viên ngọc "băng xuyên" để mời anh xuống chơi. Mang ngọc vào mình, anh có thể đi được dưới nước cũng như đi trên bộ.
Anh chàng nghe nói vội vàng đi theo con rắn nước xuống thuỷ phủ. Quả nhiên anh được Long Vương tiếp đãi rất hậu, và biếu anh ngọc vàng châu báu rất nhiều. Sau đó, anh được người của Long Vương đưa về đến tận nhà.
Chủ thuyền thấy anh mất hút, tưởng anh đã rơi xuống nước, bèn đỗ thuyền lại trình xã sở tại. Nhưng khi mọi người về đến quê hương thì họ rất lấy làm ngạc nhiên vì anh thuỷ thủ trẻ đã về đến nhà ba ngày trước rồi.
Từ đó anh trở nên giầu có. Nhưng anh vẫn sống một cuộc đời bình thường với mẹ già. Con chó, con mèo được anh cứu vẫn theo anh không rời. Về sau, anh lấy vợ. Vợ anh là một cô gái rất đẹp. Nàng rất thích đeo nữ trang. Thấy viên ngọc "băng xuyên" chiếu sáng một góc tủ, nàng thích lắm, nên một hôm lấy trộm mang đến cho một người thợ kim hoàn, bảo đánh cho mình một chiếc nhẫn. Không ngờ, người thợ kim hoàn biết là ngọc quý ít có trong thế gian, bèn đi kiếm một viên khác tương tự như thế đánh tráo mà cướp lấy bảo vật.
Khi biết rõ chuyện mất cắp thì anh chàng thuỷ thủ trở nên buồn bã. Hàng ngày anh ra bờ sông, mong tìm lại con rắn nước nhưng chả làm sao gặp được. Chó và mèo thấy chủ không vui, một hôm nói với chủ xin đi tìm viên ngọc.
Đường đi đến nhà người thợ kim hoàn phải qua một con sông rộng. Không có cách gì để vượt cả, hai con vật cứ loanh quanh ở trên bờ. Về sau chúng nó tìm được vào nhà một con rái cá và nhờ nó đưa giúp qua sông. Rái cá vui lòng gọi cho các bạn bè của nó đứng sát vào nhau, kết thành một cái bè cho chó và mèo ngồi lên lưng, chở qua sông yên lành.
Khi đến nhà người thợ kim hoàn, mèo bảo chó:
- Để tao trèo lên nóc nhà kêu lên mấy tiếng cho những con chó trong xóm xúm lại sủa. Thế là mày cứ đường hoàng theo cổng mà vào, không ai biết.
Quả nhiên, bầy chó của nhà người thợ kim hoàn nghe mấy tiếng mèo kêu vội xông ra đuổi. Mèo dẫn chúng đi thật xa nên chó ta lẻn vào nấp dưới cái hầm, vô sự.
Khi hai con vật gặp lại nhau, chúng tìm tòi khắp trong nhà. Tất cả của cải của lão kim hoàn đều bỏ trong cái rương xe, luôn luôn khoá kín, không dễ gì lọt vào được. Mèo bèn cố sức tìm, chụp bắt được một con chuột. Chuột van lạy xin tha mạng. Mèo bảo nó dẫn mình đến gặp chuột chúa đàn. Mèo nói rõ việc mình đến đây và nhờ hắn giúp mình lấy cho được viên ngọc, đổi lại mèo hứa sẽ không chạm đến gia tộc nhà hắn. Chuột chúa đàn vâng dạ rối rít.
- Để tôi bảo lũ con cháu, tôi tớ trong nhà khoét chiếc rương ra, tìm cho các ông.
Nhưng đến khi lọt vào được rương, lũ chuột tìm mãi vẫn không thấy ngọc. Chuột chúa đàn ra báo cho mèo biết, và nói:
- Trong rương này có một cái hộp bằng bạc. Có lẽ nó giấu trong đó; Cái hộp đó thì khó lòng mà gặm được.
- Vậy làm thế nào bây giờ? - mèo hỏi.
- Chỉ có cách là chúng tôi sẽ nhờ xóm giềng hợp sức cùng chúng tôi khoét rộng lỗ thủng làm sao đưa lọt cái hộp ấy ra đây cho các ông tìm.
- Thế thì làm gấp đi.
Chỉ trong một đêm, cả xóm nhà chuột đã lấy được cái hộp đưa cho mèo. Hai con vật tìm cách phá hộp ra, quả thấy viên ngọc của chủ. Chúng vô cùng mừng rỡ.
Sau khi ra khỏi nhà người thợ kim hoàn, chó tranh mèo mang ngọc. Nhưng đến lúc sắp sửa sang sông, vì mắng nhau với một con chó khác, nên chó đã lỡ làm cho ngọc văng xuống nước. Một con cá trông thấy ngọc vội bơi tới đớp và nuốt ngay.
Thấy chó để mất ngọc, mèo giận quá, mắng cho một trận thậm tệ. Chó biết lỗi, lặng thinh, cuối cùng mếu máo:
- Biết làm sao bây giờ?
Suy nghĩ một lát, mèo tìm được một kế bảo chó:
- Chúng ta sẽ tìm đến nhà thuyền chài ở vùng này xin ở với họ. Thế rồi chờ khi họ câu được con cá đã nuốt viên ngọc thì sẽ kiếm cách cướp lấy đem về.
Chó khen mưu kế hay, bèn cùng mèo tìm đến một gia đình ông chài đang đỗ thuyền lại ở bờ sông phơi lưới. Hai con vật tỏ ra rất khôn ngoan, hiền lành nên được cả nhà đối đãi tử tế.
Mấy hôm sau, ông chài đánh mẻ lưới được một con cá chày rất lớn, mổ ruột ra, thấy có viên ngọc. Chó và mèo khấp khởi mừng thầm. Trong khi cả nhà đang trao ngọc cho nhau để xem của lạ, thì mèo tiến lại cọ vào người chủ. Nhân khi chủ sơ ý, nó nhảy lên ngoạm lấy viên ngọc và lập tức cong đuôi nhảy lên bờ chạy mất. Thấy thế, chó cũng ba chân bốn cẳng chạy theo trước con mắt ngơ ngác của mấy bố con nhà ông chài.
Lần này mèo tranh chó mang ngọc. Mèo lên mặt, bảo chó:
- Lần trước ngậm bị rơi mất, lần này có cách rất hay là đội lên đầu. Sắp đến nhà rồi, chả sợ gì nữa.
Nó nói thế nào thì làm như thế.
Nào ngờ mới đi được một quãng đường, bấy giờ có một con quạ đang bay trên đầu mèo, thình lình sà xuống đớp lấy rồi bay lên đậu trên cành cao. Thấy ngọc lại mất, đến lượt chó mắng mèo rất dữ, rồi nói:
- Ngọc rơi xuống nước còn có thể lấy lại được, chứ bay lên trời thì đừng có hòng.
Mèo buồn rầu, nhưng ngẫm nghĩ một lát, nó lại bảo chó:
- Đúng rồi. Tao đã nghĩ ra được một kế.
Chó hỏi:
- Kế gì?
Mèo đáp:
- Giả chết bắt quạ.
Nói xong mèo chạy xuống bờ sông uống một bụng nước đầy căng. Đoạn trở về xua chó trốn đi một chỗ, còn mình thì tới gốc cây phơi bụng trắng hếu giả vờ chết. Quạ đang ngậm ngọc, đậu trên cây cao nhìn xuống thoáng thấy có bóng con vật chết, vội vàng bay xuống toan rỉa thịt. Nhưng khi quạ vừa xáp lại thì mèo đã nhảy xổ lên vồ lấy Quạ. Quạ van lạy xin trả lại viên ngọc cho mèo để được tha mạng. Mèo chỉ đợi có thế, ngoạm lấy viên ngọc ra đi.
Lần này, cả hai con đưa ngọc về đến nhà vẹn toàn. Anh chàng thuỷ thủ lấy lại được món tặng vật của Long Vương, hết sức vui mừng càng thêm quý mến hai con vật có tình có nghĩa.
Thuyền cất hàng, vượt biển luôn năm ngày đến một thị trấn lớn. Trên bến người mua kẻ bán chen chúc như hội. Bọn thuỷ thủ bảo chàng:
- Ở đây buôn thứ gì cũng được. Cứ mua một ít đưa về quê nhà bán là tự khắc có lãi.
Anh chàng xưa nay không quen buôn nên cầm mười quan tiền trong tay, chưa biết nên mua thứ hàng gì. Bỗng chốc, anh thấy có một người mang ra bến một con chó bị trói toan vứt xuống sông. Lấy làm thương, anh vội ngăn lại và hỏi duyên cớ. Người ấy cho biết chó này là của chủ mình. Hôm nay chủ đi chợ mua thịt dọn tiệc, không rõ cất đặt thế nào để chó ăn vụng mất cả. Chủ tức giận trói chó đánh một trận thừa sống thiếu chết rồi sai đi bỏ sông. Nghe kể thế, anh chàng xin mua lại con chó. Người kia cười mà rằng:
- Nó chỉ chuyên môn ăn vụng, anh mua về làm gì?
Chàng nghèo đáp:
- Thây kệ, cứ bán nó cho tôi đi!
Cuối cùng anh chàng xỉa ra ba quan mua lại con chó. Anh cởi trói cho nó rồi xích lại bên chỗ mình làm việc.
Sau đó một chốc, anh lại trông thấy có một người đàn bà mang một con mèo toan vứt xuống sông. Anh chàng vội ngăn lại và hỏi duyên cớ. Khi biết tội trạng của mèo cũng chỉ là ăn vụng, anh nài nỉ để con vật lại cho mình. Thấy người đàn bà khuyên không nên mua thứ mèo xấu nết, anh không nghe và nói:
- Thây kệ! Chị cứ bán cho tôi đi!
Thế là cuối cùng mèo cũng thoát chết. Và người chủ mới của nó sau khi xỉa ra ba quan để mua, đem buộc lại gần bên con chó. Ngồi một mình trên thuyền, thấy buồn, anh chàng bèn bỏ thuyền lên bộ đi dạo bờ sông. Bỗng chốc anh thấy có ba đứa trẻ chăn trâu bắt được một con rắn nước, toan dùng roi xử tội. Anh chàng vội chạy lại ngăn cản:
- Các em đừng đánh nó, nó là rắn nước, có làm hại ai đâu?
- "Mặc kệ chúng tôi" - bọn trẻ đáp, rồi lại tiếp: "Chúng tôi bắt được nó, chúng tôi đánh, ông cản làm gì?"
Thấy bọn chúng khăng khăng cố tình giết rắn, anh chàng lại dùng tiền để cứu con vật vô tội. Chúng đòi năm quan. Mãi sau anh mới bớt được một. Thế là tất cả số tiền mang theo lần lượt vơi đến hết. Mua được con rắn, anh vội thả xuống sông cho nó trở về xứ sở. Bọn thuỷ thủ khi nghe anh kể lại những việc mua bán của mình, thì đều cười ngất, cho là một người khờ dại ít có. Anh chỉ ngồi lặng yên, không nói gì cả.
Khi thuyền bắt đầu trở về vào khoảng nửa đêm, anh đang chèo bỗng thấy con rắn nước từ dưới sông bơi lên trao cho mình một viên ngọc mà nói:
- Cha tôi là Long Vương cảm ơn anh cứu mạng tôi, cho tôi đem biếu anh viên ngọc "băng xuyên" để mời anh xuống chơi. Mang ngọc vào mình, anh có thể đi được dưới nước cũng như đi trên bộ.
Anh chàng nghe nói vội vàng đi theo con rắn nước xuống thuỷ phủ. Quả nhiên anh được Long Vương tiếp đãi rất hậu, và biếu anh ngọc vàng châu báu rất nhiều. Sau đó, anh được người của Long Vương đưa về đến tận nhà.
Chủ thuyền thấy anh mất hút, tưởng anh đã rơi xuống nước, bèn đỗ thuyền lại trình xã sở tại. Nhưng khi mọi người về đến quê hương thì họ rất lấy làm ngạc nhiên vì anh thuỷ thủ trẻ đã về đến nhà ba ngày trước rồi.
Từ đó anh trở nên giầu có. Nhưng anh vẫn sống một cuộc đời bình thường với mẹ già. Con chó, con mèo được anh cứu vẫn theo anh không rời. Về sau, anh lấy vợ. Vợ anh là một cô gái rất đẹp. Nàng rất thích đeo nữ trang. Thấy viên ngọc "băng xuyên" chiếu sáng một góc tủ, nàng thích lắm, nên một hôm lấy trộm mang đến cho một người thợ kim hoàn, bảo đánh cho mình một chiếc nhẫn. Không ngờ, người thợ kim hoàn biết là ngọc quý ít có trong thế gian, bèn đi kiếm một viên khác tương tự như thế đánh tráo mà cướp lấy bảo vật.
Khi biết rõ chuyện mất cắp thì anh chàng thuỷ thủ trở nên buồn bã. Hàng ngày anh ra bờ sông, mong tìm lại con rắn nước nhưng chả làm sao gặp được. Chó và mèo thấy chủ không vui, một hôm nói với chủ xin đi tìm viên ngọc.
Đường đi đến nhà người thợ kim hoàn phải qua một con sông rộng. Không có cách gì để vượt cả, hai con vật cứ loanh quanh ở trên bờ. Về sau chúng nó tìm được vào nhà một con rái cá và nhờ nó đưa giúp qua sông. Rái cá vui lòng gọi cho các bạn bè của nó đứng sát vào nhau, kết thành một cái bè cho chó và mèo ngồi lên lưng, chở qua sông yên lành.
Khi đến nhà người thợ kim hoàn, mèo bảo chó:
- Để tao trèo lên nóc nhà kêu lên mấy tiếng cho những con chó trong xóm xúm lại sủa. Thế là mày cứ đường hoàng theo cổng mà vào, không ai biết.
Quả nhiên, bầy chó của nhà người thợ kim hoàn nghe mấy tiếng mèo kêu vội xông ra đuổi. Mèo dẫn chúng đi thật xa nên chó ta lẻn vào nấp dưới cái hầm, vô sự.
Khi hai con vật gặp lại nhau, chúng tìm tòi khắp trong nhà. Tất cả của cải của lão kim hoàn đều bỏ trong cái rương xe, luôn luôn khoá kín, không dễ gì lọt vào được. Mèo bèn cố sức tìm, chụp bắt được một con chuột. Chuột van lạy xin tha mạng. Mèo bảo nó dẫn mình đến gặp chuột chúa đàn. Mèo nói rõ việc mình đến đây và nhờ hắn giúp mình lấy cho được viên ngọc, đổi lại mèo hứa sẽ không chạm đến gia tộc nhà hắn. Chuột chúa đàn vâng dạ rối rít.
- Để tôi bảo lũ con cháu, tôi tớ trong nhà khoét chiếc rương ra, tìm cho các ông.
Nhưng đến khi lọt vào được rương, lũ chuột tìm mãi vẫn không thấy ngọc. Chuột chúa đàn ra báo cho mèo biết, và nói:
- Trong rương này có một cái hộp bằng bạc. Có lẽ nó giấu trong đó; Cái hộp đó thì khó lòng mà gặm được.
- Vậy làm thế nào bây giờ? - mèo hỏi.
- Chỉ có cách là chúng tôi sẽ nhờ xóm giềng hợp sức cùng chúng tôi khoét rộng lỗ thủng làm sao đưa lọt cái hộp ấy ra đây cho các ông tìm.
- Thế thì làm gấp đi.
Chỉ trong một đêm, cả xóm nhà chuột đã lấy được cái hộp đưa cho mèo. Hai con vật tìm cách phá hộp ra, quả thấy viên ngọc của chủ. Chúng vô cùng mừng rỡ.
Sau khi ra khỏi nhà người thợ kim hoàn, chó tranh mèo mang ngọc. Nhưng đến lúc sắp sửa sang sông, vì mắng nhau với một con chó khác, nên chó đã lỡ làm cho ngọc văng xuống nước. Một con cá trông thấy ngọc vội bơi tới đớp và nuốt ngay.
Thấy chó để mất ngọc, mèo giận quá, mắng cho một trận thậm tệ. Chó biết lỗi, lặng thinh, cuối cùng mếu máo:
- Biết làm sao bây giờ?
Suy nghĩ một lát, mèo tìm được một kế bảo chó:
- Chúng ta sẽ tìm đến nhà thuyền chài ở vùng này xin ở với họ. Thế rồi chờ khi họ câu được con cá đã nuốt viên ngọc thì sẽ kiếm cách cướp lấy đem về.
Chó khen mưu kế hay, bèn cùng mèo tìm đến một gia đình ông chài đang đỗ thuyền lại ở bờ sông phơi lưới. Hai con vật tỏ ra rất khôn ngoan, hiền lành nên được cả nhà đối đãi tử tế.
Mấy hôm sau, ông chài đánh mẻ lưới được một con cá chày rất lớn, mổ ruột ra, thấy có viên ngọc. Chó và mèo khấp khởi mừng thầm. Trong khi cả nhà đang trao ngọc cho nhau để xem của lạ, thì mèo tiến lại cọ vào người chủ. Nhân khi chủ sơ ý, nó nhảy lên ngoạm lấy viên ngọc và lập tức cong đuôi nhảy lên bờ chạy mất. Thấy thế, chó cũng ba chân bốn cẳng chạy theo trước con mắt ngơ ngác của mấy bố con nhà ông chài.
Lần này mèo tranh chó mang ngọc. Mèo lên mặt, bảo chó:
- Lần trước ngậm bị rơi mất, lần này có cách rất hay là đội lên đầu. Sắp đến nhà rồi, chả sợ gì nữa.
Nó nói thế nào thì làm như thế.
Nào ngờ mới đi được một quãng đường, bấy giờ có một con quạ đang bay trên đầu mèo, thình lình sà xuống đớp lấy rồi bay lên đậu trên cành cao. Thấy ngọc lại mất, đến lượt chó mắng mèo rất dữ, rồi nói:
- Ngọc rơi xuống nước còn có thể lấy lại được, chứ bay lên trời thì đừng có hòng.
Mèo buồn rầu, nhưng ngẫm nghĩ một lát, nó lại bảo chó:
- Đúng rồi. Tao đã nghĩ ra được một kế.
Chó hỏi:
- Kế gì?
Mèo đáp:
- Giả chết bắt quạ.
Nói xong mèo chạy xuống bờ sông uống một bụng nước đầy căng. Đoạn trở về xua chó trốn đi một chỗ, còn mình thì tới gốc cây phơi bụng trắng hếu giả vờ chết. Quạ đang ngậm ngọc, đậu trên cây cao nhìn xuống thoáng thấy có bóng con vật chết, vội vàng bay xuống toan rỉa thịt. Nhưng khi quạ vừa xáp lại thì mèo đã nhảy xổ lên vồ lấy Quạ. Quạ van lạy xin trả lại viên ngọc cho mèo để được tha mạng. Mèo chỉ đợi có thế, ngoạm lấy viên ngọc ra đi.
Lần này, cả hai con đưa ngọc về đến nhà vẹn toàn. Anh chàng thuỷ thủ lấy lại được món tặng vật của Long Vương, hết sức vui mừng càng thêm quý mến hai con vật có tình có nghĩa.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)