Thứ Hai, 8 tháng 5, 2017

Kiến con đi ô tô

Kiến con leo lên xe buýt. Kiến muốn vào rừng xanh thăm bà ngọai. Trên xe đã có dê con.Chó con, khỉ con, lợn con ngồi. Có bạn trong bọn họ vào rừng hái nấm, có bạn vào rừng chơi trốn tìm, có bạn đến dạo chơi bên hồ ở trong rừng.
>>>xem thêm : Chăm sóc em bé
                          Dinh dưỡng cho bé
           “ Bim Bim” xe chạy rồi. Tất cả cùng tiếng hát, rộn rang biết bao
            “ Bim Bim” xe dừng ở bến đón khách, một bác gấu lên xe. Bác đển rừng xanh để thăm cháu . “ Ngồi vào đâu bây giờ?” chỗ ngồi đã chật kín…
    Dê con bảo “ Bác gấu ơi! đến ngồi chỗ của cháu đi bác!”
    Chó Con bảo “ Bác Gấu ơi! đến ngồi chỗ của cháu đi bác!”
    Mọi người cùng bảo “ Bác Gấu ơi! đến ngồi chỗ của cháu đi bác!”
    Bác gấu nói “ Cám ơn các bạn, cám ơn các bạn nhỏ tốt bụng”, “ Bác ngồi chỗ của các cháu, các cháu lại phải đứng”.
    Lúc đó Kiến mới leo đến bên bác gấu, cố nhoi lên và cất giọng nói “Không, không, mời bác lại ngồi chỗ của cháu”.
    Bác gấu hỏi lại “ Thế cháu ngồi vào đâu?”
Kiến con lấp láy ánh mắt một cách hóm hỉnh. Bác gấu ngồi vào chỗ của kiến con ” Ồ!Kiến con đi đâu rùi nhỉ?”
          “Bác gấu ơi!cháu ở đây!”. Bên tai bác gấu vang lên tiếng của Kiến. Ủa, té ra Kiến con đã leo lên vai bác gấu ngồi chễm chệ trên đó.
            Trên đường đi, kiến con hát cho bác gấu nghe nhiều bài hát, những bài hát du dương quá, hay quá khiến bác gấu lim dim đôi mắt, ngẹo đầu lắng nghe.
>>>>xem thêm : Các bệnh thường gặp ở trẻ em

Thứ Sáu, 14 tháng 4, 2017

Sự tích Sọ Dừa

Truyện cổ tích Việt Nam Sọ Dừa nói về một cậu bé sinh ra đã có bộ dạng xấu xí nhưng có đức tính hiền lành tốt bụng.

Với tài năng và sự thông mình của mình cậu đã cưới được người vợ đảm sau bao nhiêu gian khổ cuối cùng kẻ xấu đã bị trừng phạt và người tốt ở hiền sẽ gặp lành. Mời các bé đọc truyện cổ tích Sọ Dừa để có bài học bổ ích nhé.

Ngày xửa ngày xưa, có một cặp vợ chồng nghèo đã đi ở cho một nhà phú ông rất giàu có từ khi còn rất trẻ. Họ rất hiền lành và chăm chỉ nhưng đã ngoài 50 tuổi rồi mà chưa có một đứa con. Một hôm, thời tiết nắng nóng khó chịu, bà vợ vào rừng nhặt củi khát khô cả cổ mà không tìm thấy một giọt nước để uống. Không chịu nổi bà đã liều mình uống chút nước ở trong cái sọ đặt ở dưới gốc cây to trong rừng. Một điều vô cùng lạ, khi uống nước ở sọ đó thì bà cảm thấy vô cùng sảng khoái và mát tận tới ruột gan. Sau đó trở về nhà bà đã có thai nhưng chỉ một thời gian sau người chồng đã qua đời. Bà hạ sinh một đứa con hết sức lạ lùng, đứa bé không có tay chân, nó tròn vo như cái sọ dừa. Bà buồn lắm toan định mang đi chông sống thì đứa bé cất tiếng gọi:

– Mẹ ơi! Con là con của mẹ. Mẹ lỡ bỏ con đi thì con tủi thân lắm!.

Bà cảm động và hối hận quyết định để lại nuôi và đặt tên con là Sọ Dừa.

Lớn lên, Sọ Dừa chỉ lăn lông lốc. Bà rất buồn lòng. Sọ Dừa thương mẹ bèn xin mẹ cho đến nhà phú ông chăn bò.

Lúc đầu phú ông còn ngần ngại nhưng sau khi suy nghĩ đã quyết định đồng ý cho Sọ Dừa ở lại làm việc.

Chẳng ngờ đâu, Sọ Dừa chăn bò rất giỏi bò con nào con lấy no căng. Phú ông càng thêm mừng.

Ngày mùa đến, tôi tớ đều bận đi làm đồng, phú ông đành sai ba cô con gái yêu quý thay nhau mang cơm cho cậu.

Một hôm đến đúng phiên cô con út mang cơm. Vừa tới chân núi, cô đã thấy một chàng trai rất tuấn tú và khôi ngô đang thổi sáo cho đàn bò gặm cỏ. Biết Sọ Dừa không phải là người bình thường, cô út đem lòng thương chộm nhớ Sọ Dừa.

Một hôm, Sọ Dừa đến tuổi lấy vợ bèn về nhà giục mẹ đến hỏi con gái phú ông. Bà vô cùng bất ngờ với yêu cầu của con, nhưng vì Sọ Dừa năn nỉ mãi, bà đã chiều lòng.

Bà mang cau đến dạm, phú ông bĩu môi cười khẩy mỉa mai rồi thách cưới bằng rất nhiều sính lễ, nào là: một chĩnh vàng cốm, mười tấm lụa đào, mười con lợn béo, mười vò rượu tăm.

Lão phú ông chẳng ngờ, đến đúng ngày hẹn mang lễ cưới Sọ Dừa và mẹ mang đầy đủ sinh lễ làm lão hoa cả mắt bèn gọi ba cô con gái ra để hỏi ý.

Hai cô chị Cả và chị Hai bĩu môi chê bai Sọ Dừa xấu xí không xứng, chỉ có cô Út là cúi đầu e lệ tỏ ý bằng lòng.

Đến ngày hỷ sự, tiệc tùng linh đình, không ai nhìn thấy Sọ Dừa đâu cả mà chỉ thấy một chú rể tuấn tú, khôi ngô đứng cạnh cô Út.

Tất cả mọi người thấy vậy đều vô cùng vui mừng riêng chỉ có hai cô chị là đố kị và ghen tức.

Cuộc sống của hai vợ chồng rất hạnh phúc. Sợ Dừa ngày đêm dùi mài kinh sử đèn sách sau đó đã thi đỗ Trạng Nguyên.

Được vua sai đi sứ, trước khi đi chàng đã dặn dò vợ kĩ càng và đưa cho vợ một hòn đá lửa, một con dao và hai quả trứng và dặn luôn mang theo bên mình để hộ thân.

Ghen tị với cô em, hai cô chị nảy sinh ý đồ hãm hại em để thay làm bà Trạng.

Một hôm, hai cô chị đã lừa cô Út đi chèo thuyền rồi lừa đẩy thuyền cô Út ra xa, giấu hết bơi chèo. Thuyền chìm, cô Út bị cá kình nuốt chửng.

Nhớ lời chồng dặn cô đã luôn mang theo những thứ chồng đưa cho. Nhờ có con dao của chồng cô Út đã thoát chết và dạt tới một hòn đảo. Cô dung dao rạch bụng cá chui ra. Lấy đá đánh lấy lửa nướng thịt cá để ăn dần.
Hình ảnh minh họa “Truyện cổ tích Sọ Dừa”

Hai quả trứng gà nở thành một đôi gà đẹp, một trống một mái làm bạn cùng cô. Vào một ngày đẹp trời, có chiếc thuyền lớn đi qua đảo, con gà trống nhìn thấy bèn gáy vang.

May sao chiếc thuyền đó chính là thuyền của Sọ Dừa, vợ chồng đoàn tụ mừng vui khôn tả. Sọ Dừa liền đón vợ trở về nhà.

Về tới nhà, quan trạng tổ chức tiệc linh đình, nhưng lại không để vợ ra mặt. Hai cô chị không biết là cô Út đã trở về khấp khởi mừng thầm, thay nhau kể chuyện cô Út gặp nạn tỏ ra đau xót.

Sọ Dừa không nói gì, tiệc tùng xong cậu mới gọi vợ ra. Hai cô chị nhìn thấy em Út xấu hổ quá đành bỏ ra về mà không nói một câu từ đó bỏ đi biệt xứ.

Trên đây là câu truyện cổ tích Sọ Dừa hi vọng các em khi đọc sẽ rút ra những bài học sâu sắc và bổ ích cho chính mình.

Thứ Hai, 3 tháng 4, 2017

Đôi bạn thân

Thím Vịt bận đi chợ xa đem con đến gởi bác gà mái mẹ. Gà mái mẹ gọi con ra chơi với Vịt con.
Gà con xin phép mẹ dẫn Vịt con ra vườn chơi và tìm giun để ăn. gà con nhanh nhẹn đi trước. Vịt con lạch bạch theo sau.

Thấy Vịt con chậm chạp, Gà con tỏ ra không thích lắm. Ra tới vườn, Gà con lấy hai chân bới đất tìm giun. Ngón chân của Vịt có màng không bới đất được. Vịt con cứ lạch bạch khiến đất bị nén xuống. G

à con không tài nào tìm giun được. Gà con tức quá nói với Vịt con :
-Bạn chẳng biết bới gì cả, bạn đi chỗ khác chơi để tôi bới một mình vậy.
Vịt con thấy Gà con cáo với mình cũng buồn, liền bỏ ra ao tìm tép ăn. Một con Cáo mắt xanh, đuôi dài nấp trong bụi rậm, thấy Gà con đi tìm mồi một mình định nhảy ra vồ. Gà con sợ quá vội ba chân bốn cẳng chạy ra bờ ao. Gà con vừa chạy vừa kêu : “Chiếp, chiếp, chiếp !”.

Vịt con đang lặn ngụp tìm tép, nghe tiếng bạn gọi vội lướt nhanh vào bờ kịp cõng bạn ra xa. Cáo chạy tới bờ đã thấy Gà và Vịt đang ở gần ao sâu. Chờ mãi không được, Cáo liếm mép và bỏ đi. Nhờ Vịt có đôi chân như mái chèo bơi rất nhanh mà Gà con thoát chết... Lúc này Gà con mới thấy việc mình đuổi Vịt con là không tốt, và xin lỗi bạn. Vịt con không giận mà còn mò tép cho gà con ăn.

Từ đấy mỗi khi Vịt con đến chơi. Gà con mừng tíu tít đi tìm giun cho Vịt con ăn. Gà con nhanh nhẹn đi trước, Vịt con lạch bạch theo sau. Hai bạn gà và Vịt rất quý mến nhau.

Thứ Tư, 29 tháng 3, 2017

Chuyện về chú vịt xám

Vịt mẹ dẫn Vịt con đi chơi. Trước khi đi, Vịt mẹ dặn:

- Các con phải đi theo mẹ, theo đàn, không được tách ra đi một mình mà con cáo ăn thịt đấy !

Đàn Vịt con vâng dạ rối rít.

Vừa ra khỏi cổng làng, chú Vịt Xám đã quên ngay lời mẹ dặn. Chú lẻn đi chơi một mình, lang thang hết nơi này đến nơi khác. Cuối cùng chú đến một cái ao có rất nhiều tôm cá. Đứng trên bờ nhìn xuống, chú thấy từng đàn cá, tôm bơi lội tung tăng dưới nước, thỉnh thoảng một con tôm cong mình nhảy tanh tách.

Thích quá, chú nhảy xuống mò lấy, mò để. Lúc ăn đã gần no, chú mới nhìn lên chẳng thấy Vịt mẹ đâu cả. Hoảng sơ, chú nhảy lên bờ gọi mẹ ầm ĩ : “Vít... vít... vít”. Gần đấy có một con cáo đang ngủ, nghe tiếng Vịt kêu, Cáo liền nhỏm dậy.

Nó lẩm bẩm
- Chà thịt vịt con ăn ngon lắm đấy ! Hôm nay mình sẽ được một bữa thịt vịt thật là ngon.

Nói rồi Cáo đi nhanh ra phía bờ ao. Khi Cáo vừa ra đến nơi thì cũng là lúc Vịt mẹ tìm thấy Vịt Xám. Trông thấy Cáo, Vịt mẹ vội dẫn Vịt Xám nhảy tùm xuống ao. Thế là Vịt Xám thoát chết.

Từ đấy Vịt Xám không bao giờ dám làm sai lời mẹ dặn.

Thứ Ba, 21 tháng 3, 2017

Chuyện chàng mồ côi

Mồ Côi càng lớn càng làm khoẻ. Không có ruộng vườn, ngày ngày chàng đem sức đổi lấy hai bữa ăn. Thấy chàng cần cù, và có lòng tốt, các bậc già cả, các cô con gái và các em bé đều quý mến.

Ngày xưa có một chàng thanh niên mồ côi cha mẹ từ tấm bé, được người làng nuôi cho lớn khôn. Người ta quen gọi chàng là Mồ Côi.

Mồ Côi càng lớn càng làm khoẻ. Không có ruộng vườn, ngày ngày chàng đem sức đổi lấy hai bữa ăn. Thấy chàng cần cù, và có lòng tốt, các bậc già cả, các cô con gái và các em bé đều quý mến. Những ngày mưa to gió lớn, chàng không đi làm được thì các cô gái rủ nhau đem gạo sang nhà giúp. Thấy vậy một vài chàng trai trẻ trong làng đem lòng ghen ghét. Họ tìm cách hãm hại Mồ Côi.

Một hôm, Mồ Côi bị ốm. Trai làng xúm lại đánh đến sứt mặt, mẻ trán giữa lúc chàng đang cùng một cô gái làng đi làm đồng về. Chàng bị đau nhừ cả người, nằm mấy ngày chưa lại sức.

Thấy bọn con trai ghét mình, chàng bèn chạy sang làng bên cạnh làm thuê, gánh mướn nuôi thân. Nhưng đến ở làng này chưa lâu, chàng lại bị bọn trai làng rủ nhau sang gây chuyện và đánh đập.

Mồ Côi lại phải bỏ làng này ra đi một lần nữa. Lần này chàng định đi kiếm ăn ở một nơi thật xa. Chàng đi ba ngày liền, đến một làng nhỏ ven rừng hẻo lánh. Chàng vào một nhà phú ông xin ở thuê. Phú ông thấy Mồ Côi khoẻ mạnh, nhanh nhẹn, liền nhận lời giao cho chàng công việc hái trám.

Nhưng khi nhìn rừng trám rộng mênh mông, cây nào cũng to bằng hai ba người ôm và cao thẳng vút lên trời, Mồ Côi lắc đầu, lè lưỡi. Phú ông ngon ngọt dỗ dành và hứa trả công cao. Trèo xong rừng trám, lão sẽ trả cho 500 lạng bạc. Lão còn bày cách bắc thang tre để trèo. Công việc leo trèo thật vô cùng vất vả và nguy hiểm. Nhưng vì thấy phú ông đối đãi có vẻ tốt, nên Mồ Côi không tiếc sức.

Từ đó ngày nào chàng cũng trèo thang lên ngọn cây trám, cầm sào vụt rụng từng chùm trám chín xuống đất. Phú ông cùng vợ và con gái thả sức thu lượm đưa ra chợ bán. Một tháng rưỡi trôi qua, với cây sào và cái thang, Mồ Côi leo hết cây trám này đến cây trám khác. Phú ông cũng thu về hết món bạc này đến món bạc kia.

Hôm ấy, Mồ Côi trèo đến cây trám thứ hai trăm cũng là cây trám cuối cùng. Thấy sắp phải tính công trả cho Mố Côi số bạc hơn năm trăm lạng, phú ông gọi vợ đến bàn mưu tính kế.

Sáng hôm ấy, vợ chồng phú ông dậy từ lúc gà gáy, sai con nấu cơm làm bữa mời Mồ Côi.

Cơm nước xong, Mồ Côi lại theo gia đình phú ông vác sào ra rừng trám.

Sau khi Mồ Côi đã trèo đến ngọn cây, thì ở dưới gốc, phú ông sai con rút lấy thang tre về nhà, mặc cho Mồ Côi ở trên cao kêu la ầm ĩ. Chàng cố tìm cách tụt xuống, nhưng loay hoay nửa buổi cũng không tìm ra cách gì cả. Thân trám thẳng tắp, to bằng hai người ôm, không thể bấu víu vào đâu để tụt xuống được. Thế là từ đấy, chàng phải sống trên ngọn cây trám như loài khỉ vượn. Ðói bụng, chàng phải hái quả trám ăn sống. Khát nước, chàng liếm từng giọt sương đêm đọng trên từng chiếc lá. Ðêm cũng như ngày chàng không dám ngủ say, ăn hết trám, chàng phải ăn đến lá. Ăn hết lá, chàng phải ăn đến vỏ.

Một buổi sáng, trời hửng nắng, Mồ Côi cởi chiếc áo cánh phơi lên một cành trước mặt. Giữa lúc ấy có một con gấu ngựa đi qua dưới gốc cây. Trông thấy cái áo của Mồ Côi, nó tưởng là một tổ ong, liền trèo lên định ăn mật. Gấu đến bên cái áo, mắt lim dim để tránh ong đốt vào mắt như thói quen của nó, rồi nhoài người ra ngoạm lấy cái áo cánh nhai ngấu nhai nghiến.

Thấy thế, một ý nghĩ táo bạo mới nẩy ra trong óc Mồ Côi. Nhằm lúc con gấu nhắm tịt cả hai mắt và mải nhai cái áo, Mồ Côi liền nhè nhẹ tụt xuống, cưỡi ngay lên lưng con gấu, hai tay ghì chặt lấy cổ. Gấu bị ôm bất thình lình, hốt hoảng nhưng không dám buông tay, đành phải cõng cả Mồ Côi tụt xuống gốc. Khi gấu còn cách mặt đất hai ba sải, Mồ Côi vội nhảy xuống đất bỏ chạy. Gấu cũng chạy đuổi theo Mồ Côi. Mồ Côi cố sức chạy mãi vào rừng. Bỗng có một cái hang sâu chắn ngang trước mặt, chàng đành phải nhảy liều xuống hang; gấu không dám nhảy theo. Mồ Côi nhờ vậy được thoát.

Nhưng từ đây, chàng lại lâm vào một cảnh khổ cực nguy hiểm mới. Hang tối om. Chàng phải lần mò từng bước chân để một lối đi ra ngoài. Chàng đi mãi trong hang nhưng đi tới đâu cũng thấy tối như bưng. Xung quanh chàng chỉ có những con dơi bay đi bay lại. Chúng bay qua đầu chàng rứt từng sợi tóc, từng mảnh da. Bao nhiêu ngày ở trong hang phải chịu cực hình như thế. Mặc dầu vậy chàng cố len lỏi đi hết gốc hang này, lại dò đi sang gốc hang kia mong tìm một lối thoát.

Chợt một hôm chàng lần tới một chỗ nọ có một tia ánh sáng lọt vào. Chàng vui mừng khấp khởi. Nhưng về sau mới biết đó chỉ là một lỗ thông thiên chứ không phải là cửa hang. Tuy vậy chàng cũng cố vịn vào vách đá trèo lên để vượt ra ngoài. Nhưng sức chàng đã yếu lắm, đã năm bẩy lần leo lên được vài ba sải tay, rồi lại ngã xuống chỗ cũ.

Một hôm, trong khi nằm ngất trong hang, chàng thấy một ông cụ đầu tóc bạc phơ, tay cầm một cái rìu và một hòn đá thần đến gần. Ông cụ bảo:

- Ta là thần núi, thấy con khổ cực quá nên đến cứu con đây! Ta cho con một cái rìu. Nó sẽ cho con cơm ăn, áo mặc. Ta cho con hòn đá thần này. Con mang rìu mài vào hòn đá này thì lưỡi rìu sẽ sắc. Con kỳ hòn đá này vào da, da sẽ trở nên trắng trẻo và đẹp đẽ. Cuối cùng ta cho con viên thuốc nó sẽ cho con sức khoẻ vượt hang.

Nói xong, thần núi chống gậy đi mất. Mồ Côi tỉnh dậy, nhặt viên thuốc bỏ vào mồm. Tự nhiên thấy người nhẹ nhõm lạ thường. Chàng giắt cái rìu và hòn đá vào thắt lưng, rồi leo theo vách thẳng lên lỗ thông khác. Khác với những lần trước, lần này chàng trèo nhanh thoăn thoắt, chỉ một lát đã tới lỗ thông hơi và nhìn thấy ánh sáng ở bên ngoài. Chàng nhắm mắt lại một lúc rồi đu người ra khỏi hang.

Chàng lần xuyên qua rừng. Ðến quá trưa, tới bờ một con sông cái. Chàng men bờ, xuôi theo dòng. Ði được một quãng, chàng gặp một ông cụ tiều phu. Nhìn thấy Mồ Côi mặt mũi gớm ghiếc, đầu không còn sợi tóc, da dẻ sần sùi, hai vành tai sứt lở, áo quần rách nát, ông cụ bỏ chạy. Mồ Côi đuổi theo kể mọi lỗi gian lao của mình cho ông nghe. Ông cụ bảo giúp mình đốn củi và phát nương rồi sẽ đưa về nhà.

Mồ Côi liền lấy cái rìu ra mài vào hòn đá thần. Cái rìu trở nên rất sắc, chàng chỉ chặt một lúc đã được một đống củi chất đầy cả một gian nhà. Tối hôm ấy, chàng được ăn nghỉ ở nhà ông cụ.

Ông cụ có sáu cô con gái. Cả sáu cô gái đều đã đến tuổi lấy chồng. Thấy bố dắt về một chàng trai gớm ghiếc, các cô con gái, trừ cô út, đều tránh xa. Họ nói với bố đuổi ngay ra khỏi nhà. Ông cụ phải mắng mãi các cô mới chịu im. Cuối cùng các cô bảo bố cho Mồ Côi ra ở lều ngoài nương để chàng vừa phát thêm rẫy vừa coi lúa. Hàng ngày các cô sẽ luân phiên nhau đưa cơm, bắt đầu từ cô cả.

Ðể khỏi giáp mặt với Mồ Côi, cô cả đem một cái mõ treo lên một gốc cây ở đầu mương cách lều khoảng một trăm bước. Cô gõ mõ một hồi ba tiếng rồi đặt cơm ở gốc cây, gọi Mồ Côi đến lấy cơm ăn. Ðoạn ba chân bốn cẳng quay trở về nhà, không cần biết rằng Mồ Côi có nghe hay không. Lần lượt bốn cô em tiếp sau cũng bắt chước làm như cô chị. Duy chỉ có cô út đến lượt mình đưa cơm, cô không bỏ nắm cơm ở dưới gốc cây, cũng không gõ mõ như các chị, mà đi vào đến tận lều, trao tận tay Mồ Côi. Trong khi Mồ Côi ăn cơm, cô ngồi lại hỏi thăm sức khoẻ, quê quán, gia đình của chàng. Cô cố ý ngồi chờ cho Mồ Côi ăn xong rồi mới về nhà.

Từ ngày ra ở lều, Mồ Côi vẫn làm việc như ông cụ dặn. Sáng nào chàng cũng mài rìu thêm sắc để chặt được nhiều cây. Chiều nào chàng cũng ra suối tắm, lấy hòn đá thần kỳ vào người, quả nhiên da dẻ chàng dần dần trở lại hồng hào, xinh đẹp hơn trước.

Bẵng đi một thời gian, chàng không thấy cô út đến đưa cơm. Tự nhiên thấy buồn buồn nhơ nhớ, chàng cho là cô út cũng bắt chước các chị đặt cơm nắm ở gốc cây, rồi vội vã trở về nhà ngay, không biết cô út bận sang nhà bà cô ở làng bên.

Sau đó ba tháng cô út lại về nhà bố. Cô lại đem cơm vào lều cho Mồ Côi nhưng cô không thấy chàng Mồ Côi xấu xí mọi ngày mà chỉ một chàng trai mặt mày sáng sủa, da dẻ hồng hào, đầu tóc gọn gẽ thì thấy ngạc nhiên, vội hỏi:

- Chàng là ai ? Chàng ở đâu đến ? Chàng có biết cái anh Mồ Côi bị ăn mất hai bàn tay, rứt hết mái tóc trước đây coi nương ở lều này không ?

Biết là cô út không nhận ra mình nữa vì là mình đã nhờ đá thần thay đổi nhiều lắm. Nhưng Mồ Côi chỉ gật đầu chào cô út, không thưa, không rằng. Cô út hỏi tới hai ba lần mà chàng chỉ cười chứ không nói một lời. Thấy vậy cô út đặt nắm cơm xuống sàn, quay ra cửa nhìn về phía rừng gọi Mồ Côi. Cô gọi tới hai ba tiếng, vẫn không có tiếng trả lời.

Gọi xong cô út xuống thang đi vào rừng. Cô tìm khắp bốn góc nương lại hú gọi luôn mồm nhưng vẫn không thấy. Cô đành chạy một mạch về nhà.

Ngày hôm sau, đến lượt cô cả đi đưa cơm. Cô út xin đi thay. Cô định hôm nay phải tìm cho bằng được Mồ Côi mới thôi. Nhưng cô lại chỉ thấy anh chàng trắng trẻo hôm qua. Cô hỏi nhưng chàng trai chỉ cười đáp lại chứ không nói. Cô đặt nắm cơm xuống sàn rồi quay ra cửa định vào rừng tìm. Lần này Mồ Côi không thể làm thinh được nữa, chàng nói:

- Cô út ơi! Cô không phải đi tìm nữa. Xin cô thứ lỗi vì tôi đã làm cô mất công tìm kiếm. Bây giờ tôi đã biết hết lòng dạ của cô đối với tôi rồi. Tôi chính là cái anh Mồ Côi mất tai mất tóc ngày nọ đây.

Cô út quay lại, hết sức ngạc nhiên, cô nói:

- Chàng đấy à ? Sao chàng thay đổi thế này ?

Mồ Côi sung sướng trả lời:

- Cô út ạ ! Nhờ có hòn đá thần này mà tôi đã dần dần trở lại lành lặn như thế này đây.

Rồi chàng kể lại cho cô út nghe những việc làm trong thời gian qua. Từ hôm ấy, ngày nào cô út cũng thay các chị vào nương đưa cơm, các cô chị rất thích không cần hỏi duyên cớ vì sao. Duy chỉ có ông cụ thì hơi lấy làm lạ. Một hôm ông lẻn thi theo rình xem cho rõ sự tình.

Nấp ở trong bụi, ông cụ không thấy anh chàng Mồ Côi xấu xí hồi nọ, mà chỉ thấy một chàng trai trẻ đẹp, nói nói cười cười với con gái út của mình. Chờ cho con về, ông cụ vào lều hỏi xem chàng trai nọ là ai. Sau khi nghe kể, ông cụ mới rõ chàng trai chính là anh chàng Mồ Côi mất tai, mất tóc.

Tối hôm ấy, ông cụ gọi cả sáu cô con gái lại hỏi:

- Anh chàng Mồ Côi ở với ta đã lâu ngày. Chàng rất chăm làm và làm rất khoẻ. Bố vừa lên nương xem thì thấy một mình chàng không những đã trông nom rất chu đáo nương lúa, nương ngô, mà còn phát gốc, chặt cây, được rất nhiều nương rẫy. Vì vậy, bố rất mến, bố muốn kén chàng vào làm rể nhà ta. Có đứa nào bằng lòng lấy chàng không ?

Nghe bố nói, năm cô chị nhìn nhau nhổ nước bọt phì phì và đều trả lời:

- Bố mẹ đừng nghĩ quàng xiên như vậy. Chúng con không bao giờ bỏ phí cái tuổi thanh xuân, dấn thân làm vợ một chàng "người không ra người, quỷ không ra quỷ !"

Ông cụ hỏi cô út, cô đỏ mặt đáp:

- Cha mẹ muốn gả cho chàng, thì con cũng xin vâng. Ông cụ nhìn vợ, rồi nhìn cô út ân cần nói:

- Vậy ngày mai, chúng ta sẽ sửa soạn làm lễ cưới đón rể cho con gái út của chúng ta.

Sáng hôm sau, cả nhà ông cụ sửa soạn lễ cưới cho con út, tất cả họ hàng và xóm làng đều rất ngạc nhiên. Họ xì xào bảo nhau:

"Ông cụ khéo lẩn thẩn, sao lại gả cô út trẻ đẹp, hiền lành, cho cái anh chàng xấu xí ấy". Nhưng buổi đón rể đã làm cho tất cả người họ, người làng, cũng như năm cô chị đều hết sức ngạc nhiên và ghen tị. Ði bên cạnh cô út không phải là chàng Mồ Côi xấu xí, mà là một chàng trai trẻ đẹp, vóc người vạm vỡ, da dẻ hồng hào, mặt mày sáng sủa, đầu tóc gọn gàng và nổi tiếng đốn cây, làm rẫy rất khoẻ.

Thứ Tư, 15 tháng 3, 2017

Sự tích Ông già Noel

Sắp đến giáng sinh rồi, nhắc đến Giáng sinh là chúng ta ai cũng nghĩ ngay đến Ông già Noel, ông già Noel đặc biệt hấp dẫn với các trẻ em, chính vì vậy các bé luôn thắc mắc ông già Noel ở đâu ra. Hôm nay, chúng ta sẽ tìm hiểu về sự tích Ông Già Noel!.

Mỗi lần đến Giáng Sinh chúng ta lại thấy hình ảnh Ông già Noel xuất hiện trên các tấm thiệp Giáng Sinh, trên giấy gói quà, có nhà thì chưng ông già Noel bằng plastic trên sân cỏ. Ngoài đường phố hay ở các khu buôn bán cũng có ông già Noel đứng vẫy tay chào mọi người qua lại. Hình ảnh phổ thông nhất là ông già Noel với các em nhỏ vây quanh trông chờ nhận quà. Những phụ huynh có con nhỏ cũng hay cho con chụp hình với ông già Noel.
Ðặc biệt là Ông già Noel lúc nào cũng mang trên vai một cái túi thật lớn, trong đó là đồ chơi, bánh kẹo, để phân phát cho trẻ em, đặc biệt là những trẻ em nghèo. Ở đây những gia đình có con nhỏ thì có tục lệ treo những chiếc vớ dài chỗ lò sưởi trong phòng khách rồi bỏ quà vào cho con, và các em nhỏ nghĩ rằng trong đêm Giáng Sinh, ông già Noel đã vào nhà qua ống khói lò sưởi để bỏ quà vào những chiếc vớ dài đó. Em nào ngoan ngoãn trong suốt năm sẽ được quà nhiều, em nào không ngoan, không vâng lời cha mẹ thì được quà ít hoặc không có quà.

Có lẽ nhiều người thắc mắc: Không biết bắt đầu từ đâu hay từ nguồn gốc nào mà có truyền thống về ông già Noel trong lễ Giáng Sinh? Có những nhà thờ không muốn nhắc đến Ông Già Noel, cũng không cho người hóa trang làm ông già Noel vào dịp Giáng Sinh vì sợ các em nhỏ hiểu lầm Giáng Sinh là sinh nhật của ông già Noel thay vì nhớ rằng Giáng Sinh là ngày mừng sinh nhật của Chúa Cứu Thế.

Nhưng khi tìm hiểu về sự tích ông già Noel chúng ta thấy huyền thoại về Ông Già Noel hay Santa Clause bắt nguồn từ một chuyện có thật, và cũng có nhiều điều hay, tốt cho chúng ta học hỏi.

Câu chuyện Ông già Noel bắt nguồn từ một chàng thanh niên tên là Nicholas, sống trong vùng Tiểu Á. Anh Nicholas ra đời trong thế kỷ thứ 3 sau Chúa, tại làng Patara, lúc đó thuộc đế quốc Hy Lạp, ngày nay là miền biển phía nam của Thổ Nhĩ Kỳ. Cha mẹ anh là người rất giàu có. Ông bà là tín đồ trung kiên của Chúa Giê-xu. Ông bà dạy con rất cẩn thận trong Lời Chúa, với mong ước con mình lớn lên sẽ trở nên một tín đồ vững mạnh, trung kiên của Chúa.

Khi Nicholas đến tuổi thiếu niên, trong vùng cha mẹ anh sống bị một bệnh dịch lớn lan tràn, cả cha và mẹ anh đều chết vì bệnh dịch đó. Cha mẹ Nicholas để lại cho anh tất cả gia tài của ông bà, vì thế trong phút chốc anh Nicholas trở nên một thiếu niên giàu có. Từ đó Nicholas về sống với người chú ruột, chú của anh là một vị linh mục.
Còn quá trẻ lại bất ngờ được hưởng một gia tài to lớn, nhưng Nicholas không dùng tiền bạc đó cho riêng mình, cũng không phung phí trong các cuộc vui chơi, như những thanh thiếu niên chúng ta thấy trong xã hội ngày nay. Lúc còn nhỏ, Nicholas được cha mẹ dạy rất nhiều về Lời Chúa trong Kinh Thánh.

Bây giờ, cha mẹ không còn nữa, mà mình lại được hưởng một gia tài to lớn, anh Nicholas nhớ lại câu chuyện Chàng Thanh Niên Giàu, trong Phúc Âm Lu-ca. Anh nhớ Chúa Giê-xu nói với thanh niên đó: “Hãy bán hết gia tài mình, phân phát cho kẻ nghèo thì con sẽ có của cải ở trên trời, bấy giờ hãy đến mà theo ta.” Nicholas liền thực hành lời Chúa, anh lấy cả gia tài cha mẹ để lại, đem ra phân phát giúp đỡ cho những người đau ốm, người nghèo khổ cùng những người gặp hoạn nạn khó khăn.

Không những thế, Nicholas cũng dâng trọn cuộc đời để hầu việc Ðức Chúa Trời, vì thế tuy là một người rất trẻ, Nicholas được phong làm Giám mục thành My-ra. Từ đó ai cũng biết giám mục Nicholas là một mạnh thường quân, luôn luôn quan tâm giúp đỡ người nghèo khổ. Ông cũng nổi tiếng là người yêu thương trẻ em và đặc biệt nhất là ông luôn quan tâm giúp đỡ các thủy thủ, quan tâm đến tàu bè của họ.

Người ta kể lại rằng, khi là một thiếu niên giàu có, một lần nọ anh Nicholas nghe nói về một người cha có ba cô con gái đến tuổi lập gia đình, nhưng không biết vì lý do nào đó, người cha bị mất hết tài sản, tiền bạc. Thời đó con gái đến tuổi lập gia đình phải được cha mẹ cho một số tiền lớn, gọi là của hồi môn, thì mới có người đến cưới làm vợ. Số tiền này là để giúp đôi vợ chồng mới bắt đầu cuộc sống riêng.

Người con gái nào không có của hồi môn thì sẽ không ai muốn cưới. Gia đình ông cha và ba cô con gái lúc đó quá nghèo, không còn một chút thức ăn nào trong nhà, còn ba cô con gái thì sắp bị bán làm nô lệ cho bất cứ người nào có tiền bỏ ra mua, vì các cô không thể sống với cha được nữa. Các cô thật buồn lo, vì nếu bị bán làm nô lệ, các cô sẽ không bao giờ có gia đình riêng mà chỉ suốt đời làm nô lệ cho chủ. Sự sống của các cô hoàn toàn do chủ quyết định, chủ cho sống thì được sống, bắt chết thì phải chết.
Buổi tối cuối cùng, trước khi người con gái đầu bị bán làm nô lệ, cô đem giặt những đôi vớ dài và đem treo trước lò sưởi cho khô. Sau đó ông cha và ba cô con gái đi ngủ. Sáng hôm sau, cô gái thấy có một vật lạ trong chiếc vớ của mình. Thò tay vào xem thì thấy có một cái túi nhỏ nhưng khá nặng. Vật nhỏ trong túi đó là một thỏi vàng. Số vàng đó không những đủ để mua thức ăn cho gia đình nhưng còn có thể làm của hồi môn cho người con gái lớn. Bốn cha con thật vui mừng.

Ngày hôm sau, người trong nhà lại thấy có một túi vàng nữa, và nhờ số vàng đó hai người con gái nhỏ cũng được cứu, không bị bán làm nô lệ. Ðến ngày thứ ba, gia đình này lại tìm thấy một túi vàng nữa. Người cha quyết định đêm đó sẽ thức suốt đêm để canh xem ai là người đã bí mật giúp gia đình ông như thế. Nhưng đến khuya ông cha quá mệt nên ngủ thiếp đi. Ðang ngủ, ông nghe có tiếng động gần bên mình, như có ai bỏ một cái túi gì xuống bên cạnh ông rồi đi mất.

Ông cha liền ngồi dậy chạy ra cửa xem thử ai mới vào nhà mình, thì ông thấy anh Nicholas, chàng thanh niên đang sống với người chú làm linh mục. Mừng quá, người cha reo lên: “Ồ, Nicholas, thì ra anh là người giúp gia đình tôi mấy hôm nay, thật tôi không biết nói sao để cảm ơn anh cho hết.” Nicholas trả lời: Bác đừng cảm ơn cháu, nhưng hãy cảm tạ Chúa đã nhậm lời cầu nguyện của bác. Bác nhớ đừng nói cho ai biết nhé”.

Từ đó anh Nicholas tiếp tục giúp đỡ người chung quanh. Anh luôn luôn giúp cách âm thầm, bí mật, anh không muốn ai ghi nhận công ơn hay đến cảm ơn anh. Nhiều năm sau đó Nicholas được phong làm giám mục.

Từ đó Giám mục Nicholas chăm sóc người trong phần trách nhiệm của ông như một người chăn chăm sóc bầy chiên, đúng ra, đó là điều chính yếu ông làm mỗi ngày. Khi trong vùng thiếu thức ăn, ông tìm thức ăn cho mọi người, để không ai bị đói. Ông luôn luôn sẵn sàng giúp những người gặp nạn hay gặp khó khăn. Suốt cả cuộc đời, giám mục Nicholas dạy cho mọi người biết sống như thế nào để bày tỏ lòng kính yêu Ðức Chúa Trời và yêu thương chăm sóc, phục vụ tha nhân.

Dưới thời hoàng đế La-mã Diocletian, là hoàng đế tàn ác, bách hại tín đồ Cơ-đốc giáo, Giám mục Nicholas đã phải chịu khổ nạn, bị bách hại vì đức tin nơi Chúa. Ông bị trục xuất khỏi quê hương và bị giam trong tù. Nhà tù lúc đó đầy những linh mục, giám mục, mục sư, chấp sự nên không có chỗ cho những tội phạm như những người ăn cắp, cướp của giết người, v.v…
Ðến năm 325, giám mục Nicholas được phóng thích ra khỏi tù, ông liền đi dự công đồng Nicea, và 18 năm sau, vào ngày 6 tháng 12, năm 343, giám mục Nicholas về với Chúa. Từ đó mỗi năm đến ngày 6 tháng 12 hoặc trong tháng 12, người ta làm lễ kỷ niệm Giám mục Nicholas. Khi giám mục Nicholas chết, mọi người đều thương tiếc. Ai cũng yêu mến ông và người ta kể lại cho nhau nghe về những việc thiện lành, nhân đức mà ông đã làm cho bao nhiêu người trong cộng đồng. Các thủy thủ đi đến đâu cũng kể lại những việc đầy yêu thương mà ông Nicholas đã làm cho họ, cho gia đình họ.

Có những câu chuyện cho thấy ông rất là yêu thương các em nhỏ, ông giúp đỡ, ra tay bảo vệ các em khi các em gặp nguy hiểm. Khi những câu chuyện đó được truyền đi từ nơi này đến nơi kia, nhiều người biết đến Nicholas và học theo gương của ông, họ bắt chước ông, đi ra giúp đỡ những người nghèo khổ, những em nhỏ kém may mắn. Vì đời sống yêu thương, quan tâm giúp đỡ mọi người mà Nicholas trở thành thánh nhân, Thánh Nicholas hay Santa Clause.

Giáng Sinh là mùa của yêu thương, của quà tặng, vì trong đêm Giáng Sinh Thiên Chúa đã ban cho chúng ta món quà quý nhất, lớn nhất và cần thiết nhất từ thiên đàng. Món quà đó là Chúa Cứu Thế Giê-xu. Mừng ngày Chúa Giáng Sinh chúng ta hãy noi gương Thánh Nicholas ngày xưa, nghĩ đến những người đang đau khổ, đau buồn, đang gặp hoạn nạn cần được giúp đỡ.

Hãy nghĩ đến những người kém may mắn hơn chúng ta và làm điều gì cụ thể để xoa dịu nỗi khổ của họ. Chúa Giê-xu dạy: “Hãy hết lòng, hết ý, hết sức kính yêu Chúa là Ðức Chúa Trời và hãy yêu người lân cận như mình” (Ma-thi-ơ 22:37-38). Lời Chúa cũng dạy: “Hỡi kẻ rất yêu dấu, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu thương đến từ Ðức Chúa Trời. Người nào yêu thì sinh từ Ðức Chúa Trời và nhìn biết Ðức Chúa Trời. Ai chẳng yêu thì không nhìn biết Ðức Chúa Trời, vì Ðức Chúa Trời là tình yêu thương” (I Giăng 4:7-8).
Kính chúc quý thính giả một Giáng Sinh đầy niềm vui và yêu thương vì đã đón nhận Chúa của tình yêu vào cuộc đời mình.

Thứ Ba, 7 tháng 3, 2017

Sự tích bông cúc trắng

Ngày xửa ngày xưa, ở một xóm vắng có nhà nọ chỉ có hai mẹ con nương tựa nhau mà sống. Còn người cha thì đã mất từ rất sớm, để lại hai mẹ con đơn côi trong túp lều nhỏ. Họ phải làm việc vô cùng vất vả thì mới kiếm vừa đủ ăn.
Vào một ngày kia, người mẹ vì làm việc quá nhiều nên bị ốm. Bà liền gọi con gái tới và bảo rằng:
– Con ơi! Giờ con hãy đi tìm thầy thuốc tới đây giúp mẹ.
Sự tích bông cúc trắng

Truyện cổ tích việt nam: Sự tích bông hoa cúc trắng
Cô bé vâng lời mẹ, vội vàng ra đi, cô cứ vừa đi vừa lo lắng cho mẹ của mình. Trên đường, cô vô tình gặp một cụ già tóc bạc, râu trắng. Cụ già thấy cô bé vội vã như vậy thì hỏi thăm:

– Này cô bé, cháu đi đâu sao mà lại vội thế?

Dù đương vội nhưng cô bé cũng dừng lại trả lời cụ già:

– Thưa cụ, giờ cháu đang đi mời thầy thuốc ạ, mẹ của cháu đang bị bệnh nặng.

Nghe vậy cụ già lại bảo cô bé:

– Ta chính là thầy thuốc. Vậy giờ cháu dẫn ta tới nhà cháu đi, ta sẽ khám bệnh giúp mẹ cháu.

Cô bé hết sức vui mừng, dẫn đường cho cụ già về nhà mình. Đến nơi, cụ già liền khám bệnh cho mẹ của cô. Sau đó thì cụ già mới bảo cô bé là:

– Bệnh của mẹ cháu đã nặng lắm rồi. Nhưng ta sẽ cố gắng hết sức để có thể chữa khỏi bệnh cho mẹ cháu. Giờ thì cháu phải đi ngay ra chỗ gốc đa ở đầu rừng, cháu sẽ thấy gần đó có bông hoa màu trắng, sau đó cháu hãy đem bông hoa về đây.

Ngoài trời bây giờ đang rất là lạnh. Mà cô bé của chúng ta chỉ mặc có một chiếc áo rất mỏng ở trên người. Nhưng thương mẹ, cô cứ đi mãi, đi mãi, cho đến khi đôi chân đã mỏi nhừ thì cô mới tới được chỗ gốc đa nơi đầu rừng như lời chỉ của cụ già kia.

Khi cô nhìn ngó xung quanh thì thấy ngay ở bụi cây gần đó có một bông hoa màu trắng rất là đẹp. Không chần chừ lâu, cô bé hái bông hoa, nâng niu nó trên tay như là vật quý. Đột nhiên cô bé lại nghe thấy có tiếng nói của cụ già đang văng vẳng ở bên tai mình:

– Bông hoa có bao nhiêu cánh nghĩa là mẹ cháu sống được bấy nhiêu ngày.

Cô bé lập tức nhìn xuống bông hoa và cẩn thận đếm từng cánh một:

– Một cánh, hai cánh, ba cánh, bốn cánh… hai mươi cánh. Trời ơi! Nghĩa là mẹ mình chỉ còn có thể sống được hai mươi ngày nữa sao?

Sau một hồi suy nghĩ thì cô bé liền ngồi xuống, nhẹ nhàng xé từng cánh hoa ra thành rất nhiều sợi nhỏ khác. Và mỗi sợi nhỏ ấy lại trở thành một cánh hoa vừa dài vừa mượt. Từ bông hoa chỉ có hai mươi cánh giờ đã trở thành bông hoa có vô vàn là cánh hoa.

Sau đó cô bé mới đem theo bông hoa chạy nhanh về nhà. Về đến nơi cô đã thấy cụ già kia đứng ngay cửa để chào đón mình. Cụ già tươi cười mà nói với cô rằng:

– Mẹ của cháu khỏi bệnh rồi đấy. Đó chính là phần thưởng cho lòng hiếu thảo, ngoan ngoãn của cháu!

Kể từ đó về sau, hằng năm cứ vào mùa thu là những bông hoa có nhiều cánh lại đua nhau nở rộ, vô cùng xinh đẹp. Và người ta đặt tên cho chúng là bông cúc trắng, nó là biểu tượng cho lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ.

Thứ Hai, 27 tháng 2, 2017

Truyền thuyết lạc long quân và âu cơ

Ngày xửa ngày xưa, có người tên Lộc Tục, lấy hiệu là Kinh Dương Vương, là thủ lĩnh ở vùng Lĩnh Nam. Kinh Dương Vương có sức khỏe hơn người, còn có biệt tài là đi lại ở dưới nước giống như là đi lại trên cạn vậy.

Vào một ngày, Kinh Dương Vương đến hồ Động Đình dạo chơi, vô tình gặp được Long Nữ vốn là con gái của Long Vương, nảy sinh tình cảm, họ trở thành vợ thành chồng, không lâu sau thì sinh ra một người con trai và đặt tên đứa bé ấy là Sùng Lâm.

Khi trưởng thành, Sùng Lâm cũng rất khỏe mạnh, chàng có thể chỉ dùng một tay để nhấc bổng tảng đá lớn lên cao. Và cũng giống như cha của mình, Sùng Lâm cũng có tài đi lại được ở dưới nước. Đến khi chàng nối nghiệp của cha mình thì lấy hiệu cho mình là Lạc Long Quân.
Đất Lĩnh Nam bấy giờ còn rất hoang vu, chẳng nơi nào là được yên ổn cả, vì thế Lạc Long Quân mới quyết định sẽ đi du ngoạn ở khắp mọi nơi.
Khi đến vùng biển Đông Nam thì Lạc Long Quân bắt gặp con cá khổng lồ. Con cá này cũng đã sống được rất lâu đời rồi, mình của nó phải dài đến ngoài năm mươi trượng, cái đuôi của nó trông như cánh buồm lớn, còn miệng của nó rộng đến mức có thể một lúc nuốt chửng mười người. Lúc nó bơi có thể khiến sóng nổi lên ngất trời, tất cả những thuyền bè đi lại qua đó đều bị làm cho chìm ngỉm, còn người ở trên thuyền thì đều bị nuốt sống cả.
Con quái vật này khiến cho dân chài vùng ấy vô cùng khiếp sợ. Họ thường gọi là Ngư tinh. Còn chỗ ở của con Ngư tinh ấy chính là một hang động rất lớn ăn sâu dưới đáy biển, bên trên hang thì có dãy núi cao chia đôi miền duyên hải.
Khi biết tin thì Lạc Long Quân vô cùng tức giận, quyết tâm lập chí giết chết loài yêu ma quỷ quái ấy để trừ hại cho nhân dân. Chàng tự đóng cho mình một chiếc thuyền lớn và chắc chắn, sau đó rèn lấy một khối sắt với những cạnh sắc bén rồi đem đi nung đỏ. Chàng đem theo khối sắt, chèo thuyền tiến thẳng tới chỗ của Ngư tinh. Khi đến gần con quái vật kia, Lạc Long Quân liền giơ khối sắt giả như là cầm ngang một người định ném cho nó. Tưởng thật, Ngư tinh liền há to miệng ra để đớp mồi. Nhân cơ hội đó, Lạc Long Quân dùng sức phi khối sắt đang nóng bỏng ấy vào miệng con quái vật.
Ngư tinh vì thế bị cháy cả họng, nó vùng vẫy chống cự, nó quật chiếc đuôi lớn của mình vào chiếc thuyền. Lạc Long Quân nhanh nhẹn dùng gươm sắc chém con Ngư tinh ấy thành ba khúc. Phần đầu của nó liền biến thành một con chó biển định chạy trốn. Nhưng lạc Long Quân lại nâng đá chặn đường để giết con chó biển ấy, rồi chặt đầu nó ném lên trên núi, ngày nay người ta gọi nó là núi Cẩu Đầu Sơn. Còn phần mình của con Ngư tinh thì cứ thế trôi ra tận xứ Mạn Cẩu, ngày nay mang tên Cẩu Đầu Thủy. Còn lại phần đuôi thì Lạc Long Quân liền lột da rồi đem phủ lên trên hòn đảo ở giữa biển, ngày nay người ta gọi đảo ấy là đảo Bạch Long Vĩ.
Khi đã trừ xong Ngư tinh thì Lạc Long Quân lại tới vùng Long Biên. Nơi này nghe nói có một con cáo chín đuôi đã sống hơn ngàn năm và thành tinh rồi. Nó sống trong một cái hang sâu ở dưới chân hòn núi phía tây của Long Biên. Hằng ngày con yêu quái này thường biến thành người, rồi trà trộn vào trong xóm làng để mà dụ dỗ bắt cóc con gái nhà lành, sau đó đem về trong hang để hãm hại. Từ vùng Long Biên cho đến vùng núi Tản Viên, nơi nào cũng bị con Hồ tinh này ra tay hãm hại không biết bao nhiêu là người. Nhân dân sống ở hai miền này đều vô cùng sợ hãi, có không ít người đành bỏ ruộng đồng, bỏ nương rẫy đem nhau đến nơi khác để làm ăn, sinh sống.
Vì thương dân nên Lạc Long Quân bèn một thân một mình đem theo gươm sắc tới chỗ hang của Hồ tinh để tìm cách mà diệt nó trừ hại. Khi mà Lạc Long Quân tới được cửa hang, Hồ tinh trú bên trong thấy có bóng người lập tức xông ra ngoài. Lạc Long Quân lập tức làm phép hô mưa gọi gió, làm sấm sét để vây chặt con yêu hồ. Lạc Long quân cùng Hồ tinh giao chiến liên tục ba ngày và ba đêm, sau đó con yêu quái cũng dần kiệt sức, nó muốn tìm đường để thoát thân. Nhưng Lạc Long Quân đã nhanh hơn, đuổi theo mà chặt đứt đầu của nó. Hồ tinh chết đi hiện lại nguyên hình vốn là con cáo chín đuôi khổng lồ.
Lạc Long Quân vội vàng vào trong hang để cứu người nào còn sống, sau đó chàng sai thủy tộc cùng dâng nước ở sông Cái lên xoáy hang của yêu quái thành một cái vực rất sâu, người ta quen gọi nơi ấy là đầm Xác Cáo, ngày nay thì gọi tên Tây Hồ.
Khi nạn Hồ tinh đã được dẹp yên thì nhân dân ở hai vùng này lại được trở về với cuộc sống cày cấy thanh bình, họ dựng xóm lập nhà ở trên khu vực đất cao nhất trong vùng và gọi đó là làng Hồ, ngày nay vẫn còn lại những dấu tích cổ.
Khi đã thấy được nhân dân ở vùng Long Biên làm ăn yên ổn rồi, Lạc Long Quân lại đi ngược lên trên vùng rừng núi thuộc đất Phong Châu. Vùng này nổi tiếng có cây cổ thụ mà người đời gọi tên là cây chiên đàn, cây cao mấy nghìn trượng, ngày trước thì cành lá của nó rất xum xuê và tươi tốt, những tán lá vươn ra che kín khoảng đất lớn. Tuy nhiên, nhiều năm sau thì cây đã khô héo và trở thành yêu quái, nhân dân gọi nó là Mộc tinh.
Không như những con yêu quái khác, Mộc tinh hung ác nhưng lại rất quỷ quyệt. Nó chẳng ở nơi nào cố định cả, nay thì nó ở khu rừng này, nhưng mai lại đổi sang khu rừng khác ngay. Không chỉ thế, nó thường hay biến hình thay dạng và ẩn nấp ở khắp mọi nơi, rồi dồn bắt con người để mà ăn thịt. Dù đi đến đâu thì cũng có thể nghe thấy được tiếng than khóc vô cùng thảm thiết của người dân. Vì thế nên Lạc Long Quân mới quyết tâm phải diệt trừ cho bằng được con yêu quái này, loại bỏ nguy hại cho nhân dân.
Bắt tay vào truy lùng con yêu quái, Lạc Long Quân đã phải luồn lách không biết bao nhiêu khu rừng, qua không biết bao nhiêu ngày đêm gian khổ thì mới có thể tìm ra được nơi ở của Mộc tinh. Sau đó Lạc Long Quân cùng giao chiến với Mộc tinh đủ trăm ngày trăm đêm, khiến cho trời long đất lở, khắp nơi đều là khói bụi mù mịt nhưng vẫn không cách nào thắng được con yêu quái kia. Sau cùng không còn cách nào khác, Lạc Long Quân đành dùng nhạc cụ có trống, chiêng để làm Mộc tinh khiếp sợ, dồn nó chạy đến phía Tây Nam và cứ sống quanh quẩn ở vùng ấy không dám đi đâu. Người ta đổi lại gọi nó là Quỷ Xương Cuồng.
Khi trừ xong nạn yêu ma quỷ quái ở đây, Lạc Long Quân lại trông thấy người dân ở vùng này đói khổ và thiếu thốn nhiều, không có quần áo mặc nên phải dùng vỏ cây để che thân, phải dùng cỏ tranh tết thành ổ để nằm. Vì vậy chàng liền dạy họ cách trồng ra lúa nếp, lại dạy cách dùng ống tre để thổi cơm, sau đó còn dạy cách đốn gỗ dựng nhà sàn ở phòng những thú dữ ở nơi rừng hoang. Lạc Long Quân cũng dạy cho họ biết cách ở cho đúng vợ chồng, cha con.
Nhân dân muốn cảm ơn công đức ấy của chàng, liền cùng nhau xây dựng một cung điện vô cùng nguy nga, tráng lệ trên đỉnh núi cao cho Lạc Long Quân. Nhưng chàng cũng không ở lại nơi này, mà thường trở về quê mẹ ở dưới thủy phủ, nhưng vẫn dặn dò dân chúng là: “Hễ ở trên này có điều thì tai biến hãy gọi ta, thì ta sẽ lập tức trở về!”.
Khi ấy Đế Lai ở phương Bắc mang theo quân tràn xuống vùng phía Nam. Và Đế Lai còn mang theo người con gái xinh đẹp mà mình yêu chiều nhất là Âu Cơ cùng voo số thị nữ cùng xuống. Vì thấy vùng Lĩnh Nam này phong cảnh xinh đẹp, có nhiều muông thú cùng gỗ quý nên Đế Lai liền lệnh cho đám quân của mình đắp lũy dựng thành định ở đây lâu dài.
Kể từ khi Đế Lai tràn xuống, nhân dân Lĩnh Nam phải phục dịch vô cùng cực khổ, mãi rồi cũng không chịu được nên họ liền hướng về phía biển Đông mà gọi lớn: “Bố ơi! Mau về cứu dân chúng con!”. Vừa dứt tiếng gọi thì Lạc Long Quân lập tức trở về.
Sau khi Lạc Long Quân nghe dân kể lại toàn bộ câu chuyện thì chàng lập tức biến thành một chàng trai khôi ngô tuấn tú, đem theo hàng trăm người đầy tớ, vừa đi lại vừa hát tiến về phía lâu đài của Đế Lai. Nhưng khi đến nơi, Lạc Long Quân lại chẳng gặp được Đế Lai, ở đó chỉ có một thiếu nữ xinh đẹp tuyệt trần đang ở cùng vô vàn thị tỳ, binh lính hầu hạ. Cô gái ấy chính là Âu Cơ.
Vì nhìn thấy Lạc Long Quân tuấn tú uy nghi nên nàng đem lòng mà say mê, quyết xin được theo Lạc Long Quân. Vì vậy Lạc Long Quân liền đưa nàng Âu Cơ đến cung điện mà nhân dân dựng cho mình ở tận trên núi cao.
Đến khi Đế Lai trở về lâu đài thì chẳng thấy con gái yêu của mình đâu, lo lắng cho con nên lập tức hạ lệnh cho quân lính của mình đi khắp nơi tìm kiếm, cứ như vậy hết ngày này lại qua ngày khác không ngơi nghỉ. Nhưng Lạc Long Quân lại sai hàng ngàn hàng vạn ác thú chặn đường và xé xác hết quân lính khiến cho chúng khiếp đảm mà bỏ chạy. Sau cùng, không làm được gì nên Đế Lai đành phải rút quân trở về phương Bắc.
Lạc Long Quân cùng Âu Cơ ở với nhau được một thời gian thì Âu Cơ mang thai, sau sinh ra được một cái bọc. Bảy ngày qua đi, cái bọc ấy nở ra được một trăm quả trứng. Và mỗi quả trứng lại nở ra được một người con trai. Một trăm người con trai ấy lớn nhanh như thổi, ai ai cũng đều khỏe mạnh, xinh đẹp và đều thông minh tuyệt trần.
Thời gian qua hàng chục năm, Lạc Long Quân có cuộc sống hạnh phúc đầm ấm cùng vợ và đàn con của mình. Tuy nhiên thì lòng chàng vẫn nhớ nhung nơi thủy phủ. Vào một ngày kia, Lạc Long Quân liền nói lời từ giã với Âu Cơ và một trăm người con trai, chàng hóa thành rồng và bay vụt lên mây, trở về với biển cả bao la.
Âu Cơ cùng với đàn con cũng rất muốn được theo Lạc Long Quân, nhưng vì không đi được nên đành buồn bã trở lại đỉnh núi. Và ngày này qua tháng khác, mọi người đều mỏi mắt mà mong chờ Lạc Long Quân trở về, nhưng mà chàng vẫn biền biệt chẳng thấy tăm hơi đâu cả.
Chờ mãi chẳng thấy Lạc Long quân về, vì nhớ chồng nên Âu Cơ lên trên đỉnh núi cao, nàng hướng về phía biển Đông mà gọi to: “Bố nó ơi! Sao chàng mãi không về để cho mẹ con thiếp sầu khổ mãi thế này!”.
Ngay tức khắc Lạc Long Quân xuất hiện. Âu Cơ liền trách: “Thiếp vốn được sinh ra nơi động lớn núi cao, ăn ở cùng chàng sinh ra trăm người con trai. Ấy vậy mà chàng nỡ lòng nào bỏ đi, bỏ mặc cho thiếp cùng các con phải khổ não bơ vơ.
Lạc Long Quân lại nói: “Ta vốn là loài rồng, còn nàng lại là giống tiên, chúng ta khó mà ăn ở được với nhau lâu dài. Ta tính như vậy, nay ta sẽ đem theo năm mươi con về nơi miền biển, còn nàng sẽ dẫn năm mươi con lên miền núi, chúng ta cùng chia nhau để trị vì mọi nơi, người lên núi, kẻ xuống biển, nếu như mà có gặp nguy hiểm gì thì lập tức báo cho người kia biết để mà giúp đỡ nhau, chớ đừng quên”.
Nói chuyện xong xuôi, cả hai cùng từ biệt, trăm người con của họ liền tỏa đi khắp các nơi. Và họ chính là tổ tiên của người Bách Việt. Người con trưởng của họ ở lại trị vì đất Phong Châu, trở thành vua của nước Văn Lang và hiệu là Hùng Vương. Sau đó Hùng vương lại chia thành mười năm bộ, đặt ra tướng văn tướng võ là lạc hầu và lạc tướng. Còn con trai của vua thì được gọi là Quan Lang, còn con gái sẽ gọi là Mỵ Nương. Danh hiệu của vua được truyền từ đời này sang đời khác đều gọi chung là Hùng Vương.
Và Lạc Long Quân chính là người có công mở mang đất Lĩnh Nam, mang lại cho nhân dân sự yên ổn. Hùng Vương là người có công dựng nước, và truyền nối ngôi vua được mười tám đời. Bởi vì sự tích về Lạc Long Quân và Âu Cơ, dân tộc Việt Nam thường kể mình chính là con rồng cháu tiên.

Thứ Sáu, 13 tháng 1, 2017

Dì phải thằng chết trôi, tôi phải đôi sấu sành

Ngày xửa ngày xưa ở làng nọ có anh chàng còn rất trẻ tuổi, nhưng lại nghèo kiết xác và cũng chưa có vợ con gì. Ngay bên cạnh nhà của anh ta là nhà của một phú ông, nhà ông ta cũng có một cô con gái đương đến độ tuổi lấy chồng. Bởi vì anh ta võ vẽ cũng được năm ba chữ nên có ý muốn ngấp nghé cô con gái nhà phú ông kia, nhưng lại ngặt phải một nỗi là nhà phú ông so với nhà hắn thì chính là một trời một vực vậy đó. 

Anh ta cũng tự biết rằng phú ông không đời nào mà chấp nhận gả con gái cho một người nghèo như anh. “Nhưng chỉ có lấy cô ả làm vợ thì mình mới có thể gỡ được cái nạn nghèo này, mà nếu như muốn lấy được cô ả ấy thì không dùng mưu mẹo thì không xong được”. Bụng nghĩ là làm, hắn lập tức quyết tâm lập mưu để tìm cách lấy bằng được mới thôi.


Vào một ngày kia khi anh ta nhìn thấy có một người đem bán hai con sấu làm bằng sành, đó là một thứ đồ cổ chả đáng mấy hột tiền. Nhưng khi nhắn nhìn thấy chúng thì đột nhiên nghĩ được một kế rất hay. Hắn lập tức hỏi mua hai con sấu bằng sành ấy rồi đem về nhà chôn sâu dưới đất, rồi đợi một thời gian sau hắn lại đem moi chúng lên. Ít ngày sau thì hắn sang nhà của phú ông bên cạnh rồi hỏi mượn ông cái cân. Khi thấy hắn vô cớ lại sang nhà mình mượn cân thì phú ông mới hỏi:

– Mày mượn cân làm gì đấy?

Hắn liền trả lời:

– Cháu mượn để về cân mấy đồ lặt vặt.

Đến chiều thì hắn đem cân sang trả lại cho phú ông, khi thấy cân có dính ít đất thì phú ông cũng lấy làm lạ lắm. Sự ngờ vực ấy của phú ông lại càng tăng lên khi thấy vài ngày sau đó hắn lại lon ton sang nhà ông để mượn cân thêm lần nữa. Lần này lúc hắn đem cân trả lại thì phú ông lại nhìn thấy cân của mình không chỉ dính mỗi đất không mà còn dính thêm cái gì nhìn giống như gỉ đồng nữa. Lần thứ ba cũng tái diễn y hệt như vậy. 

Kể từ ngày đó phú ông theo dõi để ý và rình mò xem anh hàng xóm bên cạnh nhà mình làm gì thì thấy cứ mỗi đêm hắn đều mang theo cuốc thuổng rời khỏi nhà, rồi sáng sớm tinh mơ ngày hôm sau sẽ trở lại. Ông nghĩ thầm trong bụng:

– Chắc chắn là hắn ta đào được của rồi.

Bởi nghĩ thế nên ngày nọ phú ông đột nhiên lấy cớ để sang nhà hắn dò la xem thực hư chuyện gì đang xảy ra. Một điều vô cùng lạ lùng mà ông nhìn thấy khi sang nhà hắn là từ trước đến nay ông chưa từng thấy cũng chưa từng nghe là hắn có chơi đồ cổ lúc nào, nhưng nay sang lại nhìn thấy ở trên bàn thờ của nhà hắn lại bày ra hai con sấu bằng sành, mà vẫn còn dính chút đất hình như chưa kịp lau sạch. Phú ông lấy làm lạ liền hỏi thì hắn lại giả bộ như ấp úng, sau lại nói rằng mình mua ngoài chợ. Khi về nhà phú ông nói với vợ mình rằng:

– Ta chắc chắn là thằng này đã đào được hũ bạc kho vàng nào đấy rồi. Hắn cũng ranh khôn phết đấy. Nhưng làm sao mà hắn có thể qua nổi mắt ta được.

Cũng kể từ ngày đó trở đi thì phú ông đối với hắn cũng có cảm tình hơn. Sau rồi lâu dần thì cảm tình trở thành thân tình. Khi thấy hắn cũng vẻ như nho nhã lắm thì phú ông cũng có ý định gả con gái của mình cho hắn, liền mượn mối tới để đánh tiếng xem thế nào. Khi mối tới thì anh chàng cũng nhận lời, tuy nhiên lại bảo mối rằng mình đây quá nghèo không có gì để dẫn cưới. Nghe được lời này thì phú ông bật cười, vẫn một mực tin rằng hắn là giấu của, vì vậy lập tức cam đoan với hắn rằng mình sẽ lo chu toàn mọi phí tổn trong lễ cưới xin này.

Vậy là đột nhiên hắn trở thành chồng của con gái phú ông. Ngày về nhà chồng thì cô con gái phú ông thấy chồng mình cứ khư khư mà giữ lấy chiếc hòm gỗ nhìn có vẻ rất nặng, vì thế trong bụng cũng thầm đoán của cải chắc là để cả nơi này, bởi vậy nên cũng chẳng đả động gì nữa. Tuy nhiên ngày một ngày hai cứ thế qua nhưng người vợ nhìn chồng mình cũng chẳng có vẻ gì như là giàu có cả nên đâm ra nghi ngờ. 

Nhân ngày chồng có việc phải đi vắng thì nàng lấy trộm chìa khó hòm rồi mở ra xem thử, bên trong chẳng có vàng bạc hay châu báu gì mà chỉ toàn đá cuội mà thôi. Khi biết mình đã dính lừa thì người vợ cũng chỉ biết ngồi trong nhà mà khóc than cho thân mình. Nhưng về sau nàng lại nói với chồng rằng:

– Kể ra thì anh đúng là cao mưu thật đấy. Nhưng mà giờ anh phải tìm cách mà lấy cho bằng được một người nào còn giàu có hơn cả tôi. Nếu như anh làm được như vậy thì tôi hứa sẽ ở với anh cả đời, nếu không thì có chết tôi cũng không để anh ngủ chung giường với tôi.

Nghe yêu cầu của vợ, hắn cũng gật đầu đồng ý rồi rời nhà đi. Anh ta tìm đến tận tỉnh khác rồi xin vào nhà một phú thương làm đầy tớ. Nhà phú thương này phải nói là giàu đến nứt khố đổ vách. Có hẳn một dinh cơ đồ sộ, có vườn tược rộng rãi ngay ở bên bờ sông. Hơn nữa phú thương còn có hẳn ba cô con gái đều chưa lấy chồng, ai cũng vô cùng xinh đẹp động lòng người. Vì mới đến nên hắn ta làm việc vô cùng cật lực. Bởi vậy nên ở chẳng bao lâu hắn đã khiến cho phú thương rất tin cậy mình.

Một ngày kia khi trời đã chập tối, hắn nhìn thấy ở con sông cạnh nhà phú ông có cái thây trôi qua. Rồi hắn cũng nghĩ ra được một kế rất tuyệt, hắn đem cái thây chết trôi kia vớt lên và giấu vào một chỗ rất kín đáo ở ngay trong vườn. Xong hắn liền tìm đến chỗ một người quen của mình rồi nhờ y giả làm người chú ruột đến để thăm cháu là hắn. Lúc người ấy tới thì hắn lễ phép lên nhà trên để mà xin phép phú thương cho phép chú của mình được ở lại chơi vài ngày. 

Vì nể hắn nên phú thương đồng ý, cũng tiếp đãi người nhà hắn vô cùng tử tế, còn sai người dọn cơm nước mời nữa. Nửa đêm đên thì hắn bảo ông chú giả của mình lẻn ra về, sau đó lại lấy quần áo của chú giả mặc lên người của cái xác chết kia, rồi đem cái xác chết ấy lên giường. Chuẩn bị xong xuôi thì hắn giả vờ tri hô. Hắn bảo với phú thương rằng:

– Không biết là ông đã cho chú tôi ăn cái gì mà giờ đây chú tôi đã nằm chết cứng nơi này không dậy nổi.

Khi nghe hắn nói thì phú thương này thất kinh lắm, thấy hắn còn có ý làm to chuyện lên thì hồn vía cũng không còn cái nào nữa. Phú thương thầm nghĩ: “Nếu như mà làm to chuyện này ra thì gia tư điền sản tất cả của mình cũng đều sẽ đội nón mà ra đi hết. Mấy bọn quan lại thì béo bụng chỉ nhờ có những dịp như thế này thôi”. Nghĩ thế nên là phú thương muốn đấu dịu, liền đưa hắn vào trong buồng trong để tìm cách thương lượng một chút.

Kéo hắn vào trong, phú thương mới nhẹ giọng khuyên bảo hắn, nói hắn bây giờ muốn gì thì được nấy, duy nhất chỉ cần hắn im lặng giữ kín chuyện xảy ra hôm nay đi là ổn rồi. Lúc bấy giờ thì hắn mới nói ra nguyện vọng bấy lâu của mình chính là muốn được lấy một trong số ba cô con gái của phú thương làm vợ. Nghe vậy phú thương cũng nhìn lại, coi như mặt mũi hắn thì cũng không đến nỗi nào, nhìn cũng chẳng mấy hèn kém, làm việc thì cũng coi như là đắc lực, sau khi suy nghĩ thì cũng gật đầu đồng ý đem cô con gái cả của mình gả cho hắn làm vợ, coi như là mọi chuyện đã êm xuôi.

Vậy là anh chàng lại thêm được một cô vợ mới nữa. Hơn nữa thì cô vợ mới này của hắn có của riêng vô cùng bộn bề, chắc hẳn là ăn đứt được vợ cũ của hắn. Sau khi cưới nhau được một thời gian thì hắn mới dẫn vợ mới cùng về nhà mình. Hai người đàn bà cuối cùng cũng gặp nhau, và họ ngồi lại để kể cho nhau nghe những chuyện mình đã trải qua. Khi nghe hết câu chuyện của cô gái con phú thương thì cô gái con phú ông mới lắc đầu mà nói:

– Vậy thì đúng là dì gặp phải thằng chết trôi, tôi thì phải đôi sấu sành rồi!

Truyện cổ tích Việt Nam: Người dân nghèo và Ngọc hoàng

Ngày xửa ngày xưa ở một nhà nọ có mấy đời đã phải trải qua cảnh sống nghèo khó, khố rách áo ôm. Khi đến đời của người cháu nội chính là một anh học trò nghèo không có nổi tấc đất để cắm dùi. Ngày này qua ngày khác, anh học trò ấy cố gắng đi làm mướn làm thuê ở khắp nơi, rồi tối về lại cố gắng học thêm năm ba cái chữ, cũng chỉ hy vọng một ngày nào đó có thể thay đổi số phận của bản thân và gia đình. Tuy nhiên thì đến khi anh ta đã ba mươi tuổi rồi nhưng cuộc sống vẫn cứ không nhích lên chút nào cả. Bởi vì không thể nào tiếp tục chịu đựng cảnh sống trong đói khổ, nghèo nàn và dằn vặt ấy, một ngày kia anh ngồi một mình liền than thở về kiếp sống của mình:

– Tục ngữ cũng có nói rằng: “Không ai giàu ba họ, cũng không ai khó ba đời”. Vậy mà sao nhà mình cũng đã ba đời mà toàn thấy cảnh đói rách nghèo túng. Ta nghe người ta đồn rằng Ngọc Hoàng thượng đế hay xuống ngự ở một hòn đảo mãi ngoài biển Đông. Thế thì ta phải đến đó một phen, hỏi Ngọc Hoàng cho rõ ràng mọi lẽ mới được.


Nghĩ là làm, anh lập tức thu gom chút đồ đạc rồi lên đường. Ngày thì đi, đêm lại nghỉ, hành trình của anh cũng đã được mươi hôm rồi. Nhưng tiền cùng lương khô anh mang theo cũng chẳng có mấy nên nhanh chóng cạn kiệt. Vậy là anh đành phải tìm đến một nhà kia để mà xin họ giúp đỡ mình. Chủ ở nhà này lại là một phú ông giàu có. Thấy anh có vẻ thật thà chất phác nên sai người đem dọn cơm nước thiết đãi rất tử tế, sau đó thì hỏi anh:

– Anh bây giờ đang đi đâu thế? Có chuyện gì à?

Anh học trò nghèo cũng không giấu giếm chuyện gì nên kể luôn:

– Tôi nghe được người ta nói Ngọc Hoàng thượng đế hay xuống ngự ở một hòn đảo mãi ngoài biển Đông, vì vậy mới cất công để đi tìm Ngọc Hoàng, tôi muốn hỏi ngài ấy là vì sao tục ngữ có câu “Không ai giàu ba họ, cũng không ai khó ba đời”, nhưng mà sao nhà tôi ba đời nay vẫn phải chịu cảnh đói khổ, không thể nào mà khấm khá lên được.

Nghe anh học trò nói muốn đi tìm Ngọc Hoàng hỏi chuyện thì phú ông lập tức đưa cho anh một số tiền lộ phí, rồi bảo anh:

– Nếu anh có gặp Ngọc Hoàng thì tiện thể hãy hỏi giúp tôi việc này. Nhà tôi trước nay đều chưa từng làm một việc xấu gì thất đức cả, nhưng mà không rõ tại sao mà vợ chồng chúng tôi bao năm cũng chỉ sinh được đúng một đứa con gái, đã vậy còn mắc chứng câm từ nhỏ nữa.

Anh học trò tốt bụng nhận lời nhờ vả, sau đó lại tiếp tục lên đường theo đuổi cuộc hành trình đầy gian nan vất vả của mình. Nhưng mà số tiền mà phú ông cấp cho anh đi đường cũng chẳng được bao lâu thì hết sạch. Lần này anh lại tìm đến một nhà khác ở ven đường để xin giúp đỡ. Chủ nhà lần này cũng cơm nước đãi anh vô cùng tử tế, họ cũng lại hỏi anh về mục đích của chuyến đi. Một lần nữa anh tỉ mỉ kể lại số phận bi thảm của mình và suy nghĩ tìm đến chỗ Ngọc Hoàng thượng đế để hỏi chuyện. Khi nghe xong câu chuyện thì người chủ nhà lập tức đem gạo và tiền tặng cho anh, còn bảo:

– Tiện đây thì anh hãy hỏi Ngọc Hoàng giúp tôi việc này luôn nhé. Số là nhà tôi trồng được mấy cây cam, nhưng là không biết tại sao cây nào cũng cành lá sum suê nhưng lại chẳng ra quả bao giờ cả.

Tất nhiên là anh học trò tốt bụng cũng nhận lời rồi lại tiếp tục cuộc hành trình đầy gian nan của bản thân. Tuy nhiên đến khi anh muốn vượt qua biển để đến được hòn đảo mà Ngọc Hoàng hay ngự thì chỉ thấy một biển trời đầy nước vô cùng mênh mông, nơi này lại chẳng có cái thuyền cái bè nào cả. Anh học trò đành phải ngồi lại trên bờ mà chờ đợi. Nhưng anh chờ liền ba ngày vẫn chẳng thấy gì cả, lúc này thì anh bắt đầu cảm thấy sốt ruột lắm. 

Rồi một hôm anh bỗng nhiên nhìn thấy có con ba ba khổng lồ đang nổi lên trên mặt nước, nó bơi vào gần bờ nơi anh đang đứng, còn hỏi thăm xem anh có chuyện gì hay sao mà mấy ngày nay đều ngồi đợi ở đó. Anh học trò lại kể lại một lượt về chuyện khổ tâm của mình, rồi nói rằng điều anh mong ước nhất bây giờ là có thể gặp được một con thuyền hay một cái bè nào đó để anh có thể nhờ đi ra ngoài đảo kia. Ba ba khi nghe xong toàn bộ câu chuyện của anh thì nói:

– Vậy bây giờ anh hãy leo lên trên lưng của tôi đi, tôi rất sẵn lòng chở anh ra tận ngoài đảo kia. Tuy nhiên thì tôi muốn nhờ anh một chút, sẵn tiện anh hỏi chuyện Ngọc Hoàng thì hãy hỏi giùm tôi xem là tại sao tôi đã sống ở nơi này đã đủ một ngàn năm rồi nhưng mà mãi vẫn cứ giữ nguyên bộ dáng này chưa được thay đổi.

Anh học trò lại nhận lời giúp đỡ ba ba. Sau đó anh trèo lên lưng ba ba ngồi để nó rẽ nước rồi đưa anh băng qua không biết bao nhiêu sóng nước mênh mông. Hòn đảo ở xa tít mù khơi cũng ngày một rõ ràng hơn. Cũng không lâu sau thì chân anh cũng dẫm được lên hòn đảo kia. Tuy nhiên thì anh vẫn còn phải đi một quãng đường xa nữa, sau lại phải trèo lên trên đỉnh của một ngọn núi cao. Theo những lời chỉ dẫn mà anh biết thì nơi đây chính là nơi mà thi thoảng Ngọc Hoàng sẽ xuống nghỉ ngơi. Bởi vậy anh liền dừng chân tại đây, cố gắng chờ đợi cơ hội. 

Quả nhiên là không sai, anh học trò đợi khoảng ba ngày thì buổi sáng ấy, đột nhiên từ trên trời bay vụt xuống nơi đỉnh núi cao là một vầng sáng chói mắt. Ngọc Hoàng bước ra từ vầng sáng ấy rồi khoan thai bước tới ngự trên chiếc ngai chất đầy châu báu vô cùng rực rỡ. Nhìn thấy Ngọc Hoàng, anh học trò nghèo không chút rụt rè lập tức bước tới ngay trước mặt của Ngọc Hoàng quỳ xuống thỉnh cầu. Khi trông thấy anh thì Ngọc Hoàng liền chau mày hỏi:

– Nhà ngươi tới tận đây là muốn cái gì?

Anh học trò cũng không vội hỏi ngay việc của mình mà bắt đầu hỏi việc của con ba ba đã chở anh tới đây đầu tiên. Nghe anh hỏi xong thì Ngọc Hoàng liền bảo:

– Nó vẫn giữ khư khư hòn ngọc ở trong cổ họng nên mới không thể hóa kiếp được. Bây giờ chỉ cần nó nhả ngọc ra là lập tức được hóa kiếp.

Sau đó anh học trò lại tiếp tục tâu chuyện của người trồng cam. Ngọc Hoàng nói:

– Mấy cây cam đó không ra được quả bởi vì bên dưới gốc cây có vàng. Vì kim khắc mộc mới thành ra như vậy.

Anh học trò lại hỏi chuyện của nhà phú ông có người con gái bị câm từ nhỏ. Ngọc Hoàng lại đáp:

– Nó vẫn chưa nói được bởi vì chưa có trạng nào tới để mà khai khẩu giúp nó.

Anh học trò chuẩn bị hỏi tới chuyện của chính mình, nhưng nào ngờ Ngọc Hoàng vì thấy anh cứ hỏi mãi nên bực mình mà gắt lên:

– Thật là bực mình! Ta tới đây tưởng là có thể cách biệt với thiên đình kiếm tìm không gian yên tĩnh, ai ngờ bị mấy đứa trần gian tìm đến quấy rầy mãi.

Dứt lời Ngọc Hoàng cưỡi mây rồi bay luôn về trời. Thấy Ngọc Hoàng đã đi mất, anh học trò cho rằng đây là vận số của mình xui xẻo nên cũng đành ngậm ngùi mà quay trở về. Khi anh đến bên bờ biển thì đã trông thấy con ba ba khổng lồ chầu chực sẵn ở đó rồi. Nó lập tức bảo anh lên lưng rồi chở anh về đất liền, xong mới hỏi anh:

– Này anh, việc của tôi anh hỏi thế nào rồi?

– Bởi trong cổ của mày có viên ngọc, mày lại cứ khư khư giữ lấy nó không chịu nhả ra nên mới không hóa kiếp nổi đấy!

Nghe lời anh nói, ba ba lập tức nhả viên ngọc ra rồi biếu cho anh học trò, không lâu sau nó liền được đầu thai sang kiếp khác. Anh học trò lại trở về theo đúng con đường cũ anh đã đi qua. Khi đến nhà trồng cam, chủ nhà vội vàng chạy ra đón anh và hỏi:

– Này anh, việc của tôi anh hỏi thế nào rồi?

– Bởi vì có chôn vàng dưới gốc cây nên cây mới như vậy, bây giờ đào hết lên là cây sẽ có quả ngay.

Chủ nhà lập tức đi lấy cuốc thuổng tới đào thì thấy dưới mỗi gốc của cây cam đều có một chĩnh vàng. Chủ nhà vô cùng vui vẻ liền chia cho anh học trò một chĩnh vàng coi như trả công vì đã hỏi việc giúp mình. Rồi anh lại tiếp tục lên đường trở về. Lúc anh đi ngang qua nơi kinh thành, thấy không khí nơi này vô cùng tấp nập nên anh cũng tò mò mà vào nghía xem thử. Hóa ra là ở đây đang mở khoa thi chọn Trạng Nguyên.

Bởi có viên ngọc của ba ba mà anh học trò đột nhiên sáng dạ khác thường, kinh sử dù bao nhiêu thì cũng ôn đâu thuộc đấy. Bởi vậy anh quyết định nấn lá lại kinh thành. Cũng sẵn có vàng trong tay, anh liền đi sắm sửa đủ thứ, nào quyển thi, nào lều chiếu, còn có lễ vật… và cuối cùng thì anh cũng có được tên trong danh sách thí sinh ứng thí đợt này. Khoa thi năm ấy, bài văn của anh vô cùng xuất sắc nên được chánh chủ khảo đưa lên đầu bảng. Vua cũng khen ngợi vô cùng khi đã tìm được một nhân tài xuất sắc, xứng đáng liền phong anh học trò nghèo đậu Trạng Nguyên.

Không lâu sau đó thì Trạng cưỡi ngựa trở về vinh quy bái tổ. Cùng đi với Trạng còn có một đoàn lính theo tiền hô hậu ủng. Lúc đi ngang nhà của phú ông ngày trước, Trạng vẫn chưa quên lời hứa khi ấy của mình. Chàng lập tức dừng ngựa và ghé vào trong.

Phú ông ở nhà trông thấy bao nhiêu là quân gia nườm nượp kéo vào trong nhà mình thì vội vội vàng vàng chuẩn bị khăn áo chỉnh tề để chạy ra đón tiếp. Nhìn thấy quan Trạng tiến vào lại chính là anh học trò nghèo ngày trước tìm đường đi hỏi chuyện Ngọc Hoàng thì ông càng kinh ngạc hơn. Nhưng khi Trạng vừa chuyển câu nói của Ngọc Hoàng cho phú ông nghe thì cô gái câm đã từ trong buồng trong bước ra ngoài, nàng mỉm cười và cúi chào với Trạng, cũng tự nhiên cô thốt thành lời. Phú ông vô cùng mừng rỡ, để cảm ơn ân nhân giúp đỡ mình, phú ông liền ngỏ lời muốn gả con gái mình cho Trạng.

Truyện cổ tích Việt Nam: Sự tích thỏ tai dài đuôi ngắn

Ngày xửa ngày xưa ở trong một khu rừng kia có con cọp vô cùng hung dữ cùng với con heo rừng cực kì hung hãn. Hai con này, một thì cậy mình có được bộ móng vuốt sắc nhọn, còn một con thì lại cậy mình có được một bộ nanh rất dài, chúng cậy mình có ưu thế về sức mạnh nên ra sức mà bắt nạt những con vật khác ở trong rừng. Tất cả những loài vật khác ở trong rừng đều không thể nào có được cuộc sống yên bình vì sự tồn tại của hai con thú vô cùng hung ác là cọp và heo.


Vì vậy, vào một ngày kia, tất cả các loài vật đều kéo nhau và tìm đến nhà của thỏ, mục đích của chúng là muốn tìm ra cách nào có thể tiêu diệt được cả cọp lẫn heo rừng, có như vậy thì cuộc sống của những loài khác mới được bình yên. Tuy nhiên thì cũng cứ nghĩ mãi, nghĩ mãi nhưng vẫn không thể nào tìm ra được cách nào cả. Đột nhiên thỏ reo lên:

– Tôi đã nghĩ được rồi! Tôi đã nghĩ được rồi!

Thấy thỏ reo to như vậy thì tất cả những con vật khác cũng vô cùng vui sướng, chúng vây tròn lại xung quanh thỏ, và thỏ thì thầm với tất cả về kế hoạch của mình. Khi cả đám loài vật ấy nghe được thì con nào cũng phải thán phục trước mưu trí tuyệt vời của thỏ ta.

Sáng ngày hôm sau thì thỏ đi tìm cọp, nó gặp cọp ở một bụi rậm trong rừng. Thỏ mới thì thầm vào tai của cọp rằng:

– Này bác cọp ạ! Cái thằng heo rừng ấy, nó cứ luôn đi nói xấu rồi dọa dẫm bác đủ điều, vậy mà bác không biết chút gì sao?

Cọp nghe thấy thỏ nói vậy thì giận dữ lắm, nó gầm lớn:

– Cái gì cơ? Cái thằng heo rừng ấy mà lại dám đi nói xấu lại còn dọa dẫm ta nữa sao? Nó đã nói cái gì thế?

– Ôi chúa cha! – Thỏ ta liền làm bộ như bí mật lắm, nói: – Nó bảo rằng bác ấy mà, chỉ được cái miệng to, rồi răng to, lại còn cái mặt cũng to nốt nhưng lại nhát như cáy, nó chỉ dám đi bắt nạt đám dê cùng lũ heo nhà mà thôi. Heo rừng nó còn bảo là nếu như gặp bác thì nó sẽ đâm cho thủng bụng bác luôn.

Nói chuyện với cọp xong thì thỏ lại chạy đường tắt để tới tìm heo rừng. Đúng lúc ấy thì heo rừng vẫn đang nằm ngủ say sưa ở trong hang sâu. Nhìn thấy heo rừng, thỏ lập tức nhảy tới mà lay lay nó dậy, thỏ làm bộ như mình đang sợ hãi mà bảo:

– Này bác heo ơi! Bác mau trốn đi thôi! Cái thằng cọp ấy, nó đang chạy đi tìm bác để mà ăn thịt! Nó tuyên bố với mọi người là phải cắn được cổ con heo rừng đấy, bởi vì heo rừng chỉ biết phá mì và phá bắp thôi, có được tích sự gì đâu.

Nghe thỏ nói vậy thì heo rừng giận dữ lắm. Nhưng thỏ vẫn còn cố nói thêm vài câu:

– Thằng cọp ấy còn bảo là phải cắn bằng được cổ của bác, còn muốn xem tim của bác có to hay không nữa.

Heo rừng thì vốn bản tính lì lợm, ngang ngạnh, nên khi nghe thỏ nói những lời đó thì nó chẳng thèm nói năng gì mà xộc đi tìm cọp ngay. Và hai con vật có tiếng là hung dữ nhất nhì của khu rừng này đã giáp mặt nhau. Gặp nhau chúng bắt đầu mắng nhiếc và xỉ vả đối phương vô cùng thậm tệ. Con cọp thì bảo heo rừng chỉ là cái loài chết đói. Còn heo rừng lại rủa cọp sẽ bị con quỷ Briơng làm thịt. Càng ngày chúng lại càng hăng máu hơn, tuy nhiên thì cả hai con vẫn còn có chút kiêng kị lẫn nhau. Vì vậy chúng quyết định hẹn nhau bảy ngày nữa thì sẽ tới để cùng đọ sức.

Trong thời gian bảy ngày như hẹn đã định, cọp ta cứ lăn mình ở trên đồi toàn cỏ tranh để mà luyện tập cho người khỏe hơn. Cả đồi toàn cỏ tranh ấy đã bị cọp lăn đến mức xơ xác luôn. Cọp còn định bụng trận này phải ăn sạch thịt heo rừng cho hả giận nữa.

Về phần của heo rừng, trong thời gian bảy ngày ấy nó cũng tập lăn lộn ở trong bùn suốt, vậy là bùn cứ trát lên da nó từ lớp này đến lớp khác dầy bịch. Heo rừng thầm nghĩ sẽ làm cho mấy cái răng của cọp gãy sạch, rồi đâm cho cọp phải lòi ruột ra cho nó hết cái thói mở miệng là ba hoa đi.

Qua bảy ngày, thời gian hẹn cũng đã tới, cọp cùng với heo rừng đồng thời tới chỗ trảng lớn ngay ven suối. Hai con chẳng hề mở miệng nói với nhau một lời nào mà chỉ lẳng lặng mà xông tới cắn xé đối phương. Còn thỏ ta, kẻ bày ra mưu này thì đang yên vị ở một chỗ an toàn trên cây thông, nó hò hét vô cùng ầm ĩ, mục đích chính là cổ động, khích bác để cho hai con vật ở bên dưới đánh nhau đến chí tử mới thôi.

Cọp đánh nhau với heo rừng cho tới tận khi trời đã tối mịt, nhưng chúng vẫn tiếp tục đánh nhau quên cả trời đất cho tới hết ngày hôm sau nữa. Cọp rất nhiều lần cắn vào người heo đến mức gãy mất mấy cái răng liền. Trên thân của heo rừng cũng là chi chít những vết thương lớn nhỏ. Chúng đánh nhau tới mức máu cũng chảy đầm đìa hết cả, rồi lại cùng nhau gầm lên đầy giận dữ, cũng đầy đau đớn. Tất cả thú vật ở trong rừng đều im lặng tuyệt đối để mà theo dõi trận đấu sống còn giữa hai tên chúa rừng. Duy nhất có thỏ vẫn đang vắt vẻo trên cây thông hò hét vô cùng nhiệt tình khiến cho hai con vật kia đánh nhau càng hăng máu hơn.

Cho tới ngày thứ ba của trận đấu, heo rừng thì bị què mất một chân, cọp thì lại bị mù mất một con mắt. Rồi chúng lảo đảo mà lao vào nhau một lần cuối. Cuối cùng cả hai đều lộn nhào xuống dưới suối. Bởi vì bị thương rất nặng nên chúng chìm nghỉm, chẳng con nào còn sức để mà bơi lên bờ nữa cả.

Vào đúng cái lúc mà tất cả các loài vật ở trong rừng đều đua nhau kéo tới suối để nhìn xem xác của hai con vật nổi tiếng hung ác chết vì đánh nhau kia, đột nhiên thỏ thấy đuôi của mình bị dính vào chỗ thân cây thông nó ngồi, hóa ra là nhựa thông chảy ra đã dính chặt đuôi nó vào cây. Thỏ cố gắng đứng dậy và vùng vẫy nhưng lại không cách nào thoát ra được. Vậy nó đành phải ngồi lại suy nghĩ, cứ nghĩ mãi, rồi nó bỗng nhiên lại nghĩ ra một cách. Thỏ ngồi đó chờ cho đúng lúc voi vừa từ trong rừng đi ngang qua, lập tức hét to:

– Mau dừng lại! Nơi này là suối nước của ta đây. Bất kể ai ra đây cũng cần xin phép ta!

Voi đứng sững lại, nó vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy tiếng quát vừa rồi là của một con thỏ. Nó thầm nghĩ: “Chỉ là một con thỏ nhãi nhép mà lại dám giương oai mà bắt nạt một con voi to lớn như mình!” Rồi voi lại đi tiếp. Nhưng thỏ vẫn cứ quát lớn:

– Mau dừng lại! Nơi này là suối nước của ta đây. Bất kể ai ra đây cũng cần xin phép ta! Nếu không ta sẽ thịt sống kẻ đó!

Lần này thì voi thực sự bực mình rồi, nó dừng lại ngay dưới gốc cây thông, đưa vòi ra túm chặt lấy tai thỏ, rồi dùng sức để nhấc nó lên khỏi cây, sau đó thì ném nó sang chỗ khác. Thỏ bị ném thì đau điếng lắm, nhưng trong bụng lại hết sức vui mừng vì đã thoát nạn, nó cứ cắm đầu cắm cổ mà chạy vào sâu trong rừng.

Bởi vì thỏ bị voi túm tai khiến cho đôi tai của nó dài ra. Về phần đuôi thỏ tại sao sau này lại ngắn cũn cỡn như vậy thì là do một phần đuôi của nó đã bị đứt và vẫn còn dính chặt ở cây thông khi ấy.

Cha mẹ nuôi con bể hồ lai láng, con nuôi cha mẹ kể tháng kể ngày

Ngày xửa ngày xưa, cơ đôi vợ chồng nhà nọ rất hiền lành, chăm chỉ làm ăn quanh năm suốt tháng. Họ đã có nhau ba mặt con, đều là những cậu con trai kháu khỉnh, luôn được bố mẹ thương yêu, chăm chút. Hai vợ chồng nhà họ vốn chịu thương chịu khó làm ăn, nên cũng tích trữ được nhiều của cải tiền bạc. Mặc dù vậy nhưng họ vẫn luôn tiết kiệm trong việc ăn mặc, chỉ mong đề dành dụm được gia sản cho những người con của mình. Cho đến khi cưới vợ xong cho người con trai thứ ba thì người chồng nói với vợ:

– Cả đời hai vợ chồng chúng ta vất vả làm ăn, cũng tạo được chút ít của cải. Đến nay cả hai ta đều đã đến tuổi xế chiều, chuẩn bị gần đất xa trời, vậy chúng ta nên chia tài sản cho các con để làm ăn. Như vậy cuộc sống của đứa nào cũng sẽ được ổn định, khấm khá hơn mà sau này không sợ phải tranh giành nhau nữa.


Người vợ nghe chồng nói vậy thì đồng ý, ông liền cho mời bà con họ hàng, làng xóm đến để chứng thực. Ông chỉ để lại phần ít nhất trong số tài sản ấy để hai vợ chồng dưỡng bệnh lúc tuổi già, còn lại chia đều tất cả tài sản cho các con.

Mặc dù đã hơn 60 tuổi nhưng vẫn còn rất minh mẫn, khỏe mạnh và luôn ham mê công việc kinh doanh. Sau khi phân chia tài sản cho các con xong, hai vợ chồng già lại quay lại với công việc làm ăn của mình. Phần tiền mà trước đó định để dưỡng già đã được ông lấy là làm vốn liếng cho công việc kinh doanh. Mặc dù chỉ có hai vợ chồng già tất bật làm ăn nhưng may mắn là công việc rất thuận lợi, đem về những khoản lợi nhuận lớn, cứ lãi mẹ đẻ lãi con, khối tài sản của hai vợ chồng ngày một gia tăng. 

Chỉ khoảng năm, sáu năm sau, hai vợ chồng ông lại có một cuộc sống vô cùng sung túc, dư dả. Trong khi đó, ba đứa con trai của vợ chồng ông, đứa thì chưa có kinh nghiệm làm ăn, đứa thì ham chơi, lười nhác nên đều không gây dựng được sự nghiệp, khối tài sản được bố mẹ chia cho trước đó đã sớm vị tiêu tan.

Một ngày kia, ba đứa con trai đến gặp bố mẹ và nói:

– Cả bố mẹ hiện nay đều đã cao tuổi, không còn thích hợp với công việc chợ búa, làm ăn nữa. Chúng con có ý rằng bố mẹ nên nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng tuổi già. Còn phần tài sản của bố mẹ, xin hãy giao cho chúng con quản lý để làm ăn. Chúng con xin được phụng giưỡng bố mẹ đến cuối đời.

Ông già nghe các con nói vậy liền trả lời rằng:

– Bố mẹ cũng rất muốn như vậy. Nhưng xưa nay bố mẹ nuôi con thì dễ, còn con nuôi bố mẹ lại là chuyện không hề đơn giản.

Ba người con trai vội tiếp lời:

– Xin bố mẹ hãy yên tâm, đừng lo lắng gì cả. Những người khác dù không có tiền bạc cũng nuôi được bố mẹ mình, huống chi bố mẹ có khối tài sản lớn như vậy, cớ sao lại lo lắng chúng con không thể nuôi được?

Ông già trầm ngâm suy nghĩ một lát rồi nói:

– Vậy thì ba tháng sau ta sẽ cho các con câu trả lời.

Ở bên cạnh ngôi nhà của hai vợ chồng ông lão có một vườn cây tốt sum suê, chim muông tới đậu hót líu lo suốt cả ngày. Vào một ngày, ông nhờ những đứa trẻ trong xóm trèo lên cây để tìm cho ông một tổ chim. Mấy đứa trẻ con vừa trèo lên cây một lúc đã đem xuống cho ông một tổ chim gồm có một đôi vợ chồng chim chào mào mà hai con chim non. Ông phóng sinh thả cặp chim bố mẹ đi rồi làm một cái lồng thật đẹp, cho hai con chim non vào đó. Ông treo chiếc lồng có hai con chim non lên cây. Hàng ngày, đều có tiếng hót líu lo của chim bố mẹ, mang thức ăn đến, thò cổ và đút vào cho con. Ông thầm nghĩ rằng loài chim thật là tình nghĩa, dù hai con chim non bị bắt nhưng chim bố mẹ vẫn không chịu bỏ.

Cho đến khi hai con chim non đã khôn lớn thì ông thả chúng đi, và nhờ bọn trẻ bắt lại hai con chim bố mẹ. Nhưng ngay khi vừa được thả đi thì hai con chim non đã đập cánh bay đi mất hút mà không quay trở lại nữa, mặc cho hai con chim bố mẹ bị nhốt trong lồng. Ông già buồn lòng nghĩ: “Thật là bội bạc! Những con chim non còn chẳng nghĩ tới chuyện trở về, huống chi là đút mồi cho chim bố mẹ”. Qua sự việc được chứng kiến của loài chim, ông già nghĩ rằng “ Con người cũng như vậy. Chỉ có chuyện trả nợ xuống chứ không thể có chuyện trả nợ lên”.

Ba tháng trôi qua thật nhanh, ba người con trai lại đến, mong nhận được câu trả lời của bố mẹ. Ông già liền kể cho ba đứa con của mình nghe lại câu chuyện về gia đình chim chào mào. Rồi ông chậm rãi nói:

– Không phải bố mẹ có của cải mà không muốn để lại cho các con. Khi chết đi, ta cũng chẳng thể mang theo thứ gì. Nhưng bố mẹ vẫn nghĩ rằng các con có thể chăm sóc những đứa con của mình tốt hơn là chăm sóc bố mẹ. Hơn nữa, lúc khấm khá còn nhiều tình nghĩa, đến khi các con túng thiếu liệu có nghĩ đến cha mẹ nữa không? Vì thế nên ta nghĩ rằng, ta và mẹ các con ở riêng thế này sẽ tốt hơn, làm được gì thì ăn nấy, không phải nhờ vả hay làm bận lòng các con.

Nghe bố mình nói vậy thì ba đứa con thề thốt hết lời. Cả ba đứa con nếu hứa sẽ chăm sóc bố mẹ chu đáo dù có giàu sang hay nghèo hèn, kể cả phải đi ăn xin về nuôi bố mẹ. Thấy vậy, bà vợ cũng bảo với ông rằng:

– Các con đã thề thốt như vậy, ông cũng nên nghĩ lại. Đó chỉ là câu chuyện của loài chim, nhưng con người sẽ khác mà ông.

Nghe vợ và các con nói vậy, cuối cùng, ông già đành đồng ý để lại gia sản cho các con một lần nữa.

Ba năm đầu tiên, cả ba người con đều chăm sóc bố mẹ hết sức chu đáo. Dù có đi làm ăn ở đâu, cứ hễ có của ngon vật lạ thì đều mua về biếu bố mẹ. Nhưng việc đó cũng không kéo dài được lâu, càng về sai thì công việc chăm sóc bố mẹ càng trở nên chểnh mảng. Đến khi công việc làm ăn của cả ba người con đều không thuận lợi, thì họ cũng chẳng còn mặn mà với việc chăm sóc bố mẹ nữa. Không những thế, vợ của ba anh em là ba chị em dâu, nên càng xét nét việc này, họ so đo từng chút tiền bạc, cơm gạo cho bố mẹ chồng. Ban đầu, cả ba anh em đều góp tiền vào để lo cho bố mẹ nhưng về sau thì việc đóng góp không còn được đầy đủ nữa. 

Họ bàn bạc nhau hãy để cho bố mẹ ở chung với mỗi nhà một năm, rồi luân phiên giữa ba anh em. Nhưng ai cũng sợ bị thua thiệt, họ nghĩ rằng nếu bố mẹ chưa kịp ở với ai mà mất sớm thì người còn lại sẽ được nhiều lợi hơn. Ba anh em liền rút thời hạn chăm sóc bố mẹ xuống còn nửa năm, sau đó lại ba tháng…và cuối cùng họ quyết định là một tháng. Nhưng hai vợ chồng già ngày càng lớn tuổi, sức khỏe càng bị yếu đi mà công việc chăm sóc của con cái lại càng chểnh mảng. Ai cũng chỉ mong hết thời hạn một tháng để được tống khứ bố mẹ đi.

Chưa đầy một năm sau, phần vì đói, phần vì bệnh tật, cả hai vợ chồng già lần lượt qua đời. Từ đó mà trong dân gian có câu:

“ Cha mẹ nuôi con bể hồ lai láng

Con nuôi cha mẹ kể tháng kể ngày”.