Thứ Sáu, 13 tháng 1, 2017

Dì phải thằng chết trôi, tôi phải đôi sấu sành

Ngày xửa ngày xưa ở làng nọ có anh chàng còn rất trẻ tuổi, nhưng lại nghèo kiết xác và cũng chưa có vợ con gì. Ngay bên cạnh nhà của anh ta là nhà của một phú ông, nhà ông ta cũng có một cô con gái đương đến độ tuổi lấy chồng. Bởi vì anh ta võ vẽ cũng được năm ba chữ nên có ý muốn ngấp nghé cô con gái nhà phú ông kia, nhưng lại ngặt phải một nỗi là nhà phú ông so với nhà hắn thì chính là một trời một vực vậy đó. 

Anh ta cũng tự biết rằng phú ông không đời nào mà chấp nhận gả con gái cho một người nghèo như anh. “Nhưng chỉ có lấy cô ả làm vợ thì mình mới có thể gỡ được cái nạn nghèo này, mà nếu như muốn lấy được cô ả ấy thì không dùng mưu mẹo thì không xong được”. Bụng nghĩ là làm, hắn lập tức quyết tâm lập mưu để tìm cách lấy bằng được mới thôi.


Vào một ngày kia khi anh ta nhìn thấy có một người đem bán hai con sấu làm bằng sành, đó là một thứ đồ cổ chả đáng mấy hột tiền. Nhưng khi nhắn nhìn thấy chúng thì đột nhiên nghĩ được một kế rất hay. Hắn lập tức hỏi mua hai con sấu bằng sành ấy rồi đem về nhà chôn sâu dưới đất, rồi đợi một thời gian sau hắn lại đem moi chúng lên. Ít ngày sau thì hắn sang nhà của phú ông bên cạnh rồi hỏi mượn ông cái cân. Khi thấy hắn vô cớ lại sang nhà mình mượn cân thì phú ông mới hỏi:

– Mày mượn cân làm gì đấy?

Hắn liền trả lời:

– Cháu mượn để về cân mấy đồ lặt vặt.

Đến chiều thì hắn đem cân sang trả lại cho phú ông, khi thấy cân có dính ít đất thì phú ông cũng lấy làm lạ lắm. Sự ngờ vực ấy của phú ông lại càng tăng lên khi thấy vài ngày sau đó hắn lại lon ton sang nhà ông để mượn cân thêm lần nữa. Lần này lúc hắn đem cân trả lại thì phú ông lại nhìn thấy cân của mình không chỉ dính mỗi đất không mà còn dính thêm cái gì nhìn giống như gỉ đồng nữa. Lần thứ ba cũng tái diễn y hệt như vậy. 

Kể từ ngày đó phú ông theo dõi để ý và rình mò xem anh hàng xóm bên cạnh nhà mình làm gì thì thấy cứ mỗi đêm hắn đều mang theo cuốc thuổng rời khỏi nhà, rồi sáng sớm tinh mơ ngày hôm sau sẽ trở lại. Ông nghĩ thầm trong bụng:

– Chắc chắn là hắn ta đào được của rồi.

Bởi nghĩ thế nên ngày nọ phú ông đột nhiên lấy cớ để sang nhà hắn dò la xem thực hư chuyện gì đang xảy ra. Một điều vô cùng lạ lùng mà ông nhìn thấy khi sang nhà hắn là từ trước đến nay ông chưa từng thấy cũng chưa từng nghe là hắn có chơi đồ cổ lúc nào, nhưng nay sang lại nhìn thấy ở trên bàn thờ của nhà hắn lại bày ra hai con sấu bằng sành, mà vẫn còn dính chút đất hình như chưa kịp lau sạch. Phú ông lấy làm lạ liền hỏi thì hắn lại giả bộ như ấp úng, sau lại nói rằng mình mua ngoài chợ. Khi về nhà phú ông nói với vợ mình rằng:

– Ta chắc chắn là thằng này đã đào được hũ bạc kho vàng nào đấy rồi. Hắn cũng ranh khôn phết đấy. Nhưng làm sao mà hắn có thể qua nổi mắt ta được.

Cũng kể từ ngày đó trở đi thì phú ông đối với hắn cũng có cảm tình hơn. Sau rồi lâu dần thì cảm tình trở thành thân tình. Khi thấy hắn cũng vẻ như nho nhã lắm thì phú ông cũng có ý định gả con gái của mình cho hắn, liền mượn mối tới để đánh tiếng xem thế nào. Khi mối tới thì anh chàng cũng nhận lời, tuy nhiên lại bảo mối rằng mình đây quá nghèo không có gì để dẫn cưới. Nghe được lời này thì phú ông bật cười, vẫn một mực tin rằng hắn là giấu của, vì vậy lập tức cam đoan với hắn rằng mình sẽ lo chu toàn mọi phí tổn trong lễ cưới xin này.

Vậy là đột nhiên hắn trở thành chồng của con gái phú ông. Ngày về nhà chồng thì cô con gái phú ông thấy chồng mình cứ khư khư mà giữ lấy chiếc hòm gỗ nhìn có vẻ rất nặng, vì thế trong bụng cũng thầm đoán của cải chắc là để cả nơi này, bởi vậy nên cũng chẳng đả động gì nữa. Tuy nhiên ngày một ngày hai cứ thế qua nhưng người vợ nhìn chồng mình cũng chẳng có vẻ gì như là giàu có cả nên đâm ra nghi ngờ. 

Nhân ngày chồng có việc phải đi vắng thì nàng lấy trộm chìa khó hòm rồi mở ra xem thử, bên trong chẳng có vàng bạc hay châu báu gì mà chỉ toàn đá cuội mà thôi. Khi biết mình đã dính lừa thì người vợ cũng chỉ biết ngồi trong nhà mà khóc than cho thân mình. Nhưng về sau nàng lại nói với chồng rằng:

– Kể ra thì anh đúng là cao mưu thật đấy. Nhưng mà giờ anh phải tìm cách mà lấy cho bằng được một người nào còn giàu có hơn cả tôi. Nếu như anh làm được như vậy thì tôi hứa sẽ ở với anh cả đời, nếu không thì có chết tôi cũng không để anh ngủ chung giường với tôi.

Nghe yêu cầu của vợ, hắn cũng gật đầu đồng ý rồi rời nhà đi. Anh ta tìm đến tận tỉnh khác rồi xin vào nhà một phú thương làm đầy tớ. Nhà phú thương này phải nói là giàu đến nứt khố đổ vách. Có hẳn một dinh cơ đồ sộ, có vườn tược rộng rãi ngay ở bên bờ sông. Hơn nữa phú thương còn có hẳn ba cô con gái đều chưa lấy chồng, ai cũng vô cùng xinh đẹp động lòng người. Vì mới đến nên hắn ta làm việc vô cùng cật lực. Bởi vậy nên ở chẳng bao lâu hắn đã khiến cho phú thương rất tin cậy mình.

Một ngày kia khi trời đã chập tối, hắn nhìn thấy ở con sông cạnh nhà phú ông có cái thây trôi qua. Rồi hắn cũng nghĩ ra được một kế rất tuyệt, hắn đem cái thây chết trôi kia vớt lên và giấu vào một chỗ rất kín đáo ở ngay trong vườn. Xong hắn liền tìm đến chỗ một người quen của mình rồi nhờ y giả làm người chú ruột đến để thăm cháu là hắn. Lúc người ấy tới thì hắn lễ phép lên nhà trên để mà xin phép phú thương cho phép chú của mình được ở lại chơi vài ngày. 

Vì nể hắn nên phú thương đồng ý, cũng tiếp đãi người nhà hắn vô cùng tử tế, còn sai người dọn cơm nước mời nữa. Nửa đêm đên thì hắn bảo ông chú giả của mình lẻn ra về, sau đó lại lấy quần áo của chú giả mặc lên người của cái xác chết kia, rồi đem cái xác chết ấy lên giường. Chuẩn bị xong xuôi thì hắn giả vờ tri hô. Hắn bảo với phú thương rằng:

– Không biết là ông đã cho chú tôi ăn cái gì mà giờ đây chú tôi đã nằm chết cứng nơi này không dậy nổi.

Khi nghe hắn nói thì phú thương này thất kinh lắm, thấy hắn còn có ý làm to chuyện lên thì hồn vía cũng không còn cái nào nữa. Phú thương thầm nghĩ: “Nếu như mà làm to chuyện này ra thì gia tư điền sản tất cả của mình cũng đều sẽ đội nón mà ra đi hết. Mấy bọn quan lại thì béo bụng chỉ nhờ có những dịp như thế này thôi”. Nghĩ thế nên là phú thương muốn đấu dịu, liền đưa hắn vào trong buồng trong để tìm cách thương lượng một chút.

Kéo hắn vào trong, phú thương mới nhẹ giọng khuyên bảo hắn, nói hắn bây giờ muốn gì thì được nấy, duy nhất chỉ cần hắn im lặng giữ kín chuyện xảy ra hôm nay đi là ổn rồi. Lúc bấy giờ thì hắn mới nói ra nguyện vọng bấy lâu của mình chính là muốn được lấy một trong số ba cô con gái của phú thương làm vợ. Nghe vậy phú thương cũng nhìn lại, coi như mặt mũi hắn thì cũng không đến nỗi nào, nhìn cũng chẳng mấy hèn kém, làm việc thì cũng coi như là đắc lực, sau khi suy nghĩ thì cũng gật đầu đồng ý đem cô con gái cả của mình gả cho hắn làm vợ, coi như là mọi chuyện đã êm xuôi.

Vậy là anh chàng lại thêm được một cô vợ mới nữa. Hơn nữa thì cô vợ mới này của hắn có của riêng vô cùng bộn bề, chắc hẳn là ăn đứt được vợ cũ của hắn. Sau khi cưới nhau được một thời gian thì hắn mới dẫn vợ mới cùng về nhà mình. Hai người đàn bà cuối cùng cũng gặp nhau, và họ ngồi lại để kể cho nhau nghe những chuyện mình đã trải qua. Khi nghe hết câu chuyện của cô gái con phú thương thì cô gái con phú ông mới lắc đầu mà nói:

– Vậy thì đúng là dì gặp phải thằng chết trôi, tôi thì phải đôi sấu sành rồi!

Truyện cổ tích Việt Nam: Người dân nghèo và Ngọc hoàng

Ngày xửa ngày xưa ở một nhà nọ có mấy đời đã phải trải qua cảnh sống nghèo khó, khố rách áo ôm. Khi đến đời của người cháu nội chính là một anh học trò nghèo không có nổi tấc đất để cắm dùi. Ngày này qua ngày khác, anh học trò ấy cố gắng đi làm mướn làm thuê ở khắp nơi, rồi tối về lại cố gắng học thêm năm ba cái chữ, cũng chỉ hy vọng một ngày nào đó có thể thay đổi số phận của bản thân và gia đình. Tuy nhiên thì đến khi anh ta đã ba mươi tuổi rồi nhưng cuộc sống vẫn cứ không nhích lên chút nào cả. Bởi vì không thể nào tiếp tục chịu đựng cảnh sống trong đói khổ, nghèo nàn và dằn vặt ấy, một ngày kia anh ngồi một mình liền than thở về kiếp sống của mình:

– Tục ngữ cũng có nói rằng: “Không ai giàu ba họ, cũng không ai khó ba đời”. Vậy mà sao nhà mình cũng đã ba đời mà toàn thấy cảnh đói rách nghèo túng. Ta nghe người ta đồn rằng Ngọc Hoàng thượng đế hay xuống ngự ở một hòn đảo mãi ngoài biển Đông. Thế thì ta phải đến đó một phen, hỏi Ngọc Hoàng cho rõ ràng mọi lẽ mới được.


Nghĩ là làm, anh lập tức thu gom chút đồ đạc rồi lên đường. Ngày thì đi, đêm lại nghỉ, hành trình của anh cũng đã được mươi hôm rồi. Nhưng tiền cùng lương khô anh mang theo cũng chẳng có mấy nên nhanh chóng cạn kiệt. Vậy là anh đành phải tìm đến một nhà kia để mà xin họ giúp đỡ mình. Chủ ở nhà này lại là một phú ông giàu có. Thấy anh có vẻ thật thà chất phác nên sai người đem dọn cơm nước thiết đãi rất tử tế, sau đó thì hỏi anh:

– Anh bây giờ đang đi đâu thế? Có chuyện gì à?

Anh học trò nghèo cũng không giấu giếm chuyện gì nên kể luôn:

– Tôi nghe được người ta nói Ngọc Hoàng thượng đế hay xuống ngự ở một hòn đảo mãi ngoài biển Đông, vì vậy mới cất công để đi tìm Ngọc Hoàng, tôi muốn hỏi ngài ấy là vì sao tục ngữ có câu “Không ai giàu ba họ, cũng không ai khó ba đời”, nhưng mà sao nhà tôi ba đời nay vẫn phải chịu cảnh đói khổ, không thể nào mà khấm khá lên được.

Nghe anh học trò nói muốn đi tìm Ngọc Hoàng hỏi chuyện thì phú ông lập tức đưa cho anh một số tiền lộ phí, rồi bảo anh:

– Nếu anh có gặp Ngọc Hoàng thì tiện thể hãy hỏi giúp tôi việc này. Nhà tôi trước nay đều chưa từng làm một việc xấu gì thất đức cả, nhưng mà không rõ tại sao mà vợ chồng chúng tôi bao năm cũng chỉ sinh được đúng một đứa con gái, đã vậy còn mắc chứng câm từ nhỏ nữa.

Anh học trò tốt bụng nhận lời nhờ vả, sau đó lại tiếp tục lên đường theo đuổi cuộc hành trình đầy gian nan vất vả của mình. Nhưng mà số tiền mà phú ông cấp cho anh đi đường cũng chẳng được bao lâu thì hết sạch. Lần này anh lại tìm đến một nhà khác ở ven đường để xin giúp đỡ. Chủ nhà lần này cũng cơm nước đãi anh vô cùng tử tế, họ cũng lại hỏi anh về mục đích của chuyến đi. Một lần nữa anh tỉ mỉ kể lại số phận bi thảm của mình và suy nghĩ tìm đến chỗ Ngọc Hoàng thượng đế để hỏi chuyện. Khi nghe xong câu chuyện thì người chủ nhà lập tức đem gạo và tiền tặng cho anh, còn bảo:

– Tiện đây thì anh hãy hỏi Ngọc Hoàng giúp tôi việc này luôn nhé. Số là nhà tôi trồng được mấy cây cam, nhưng là không biết tại sao cây nào cũng cành lá sum suê nhưng lại chẳng ra quả bao giờ cả.

Tất nhiên là anh học trò tốt bụng cũng nhận lời rồi lại tiếp tục cuộc hành trình đầy gian nan của bản thân. Tuy nhiên đến khi anh muốn vượt qua biển để đến được hòn đảo mà Ngọc Hoàng hay ngự thì chỉ thấy một biển trời đầy nước vô cùng mênh mông, nơi này lại chẳng có cái thuyền cái bè nào cả. Anh học trò đành phải ngồi lại trên bờ mà chờ đợi. Nhưng anh chờ liền ba ngày vẫn chẳng thấy gì cả, lúc này thì anh bắt đầu cảm thấy sốt ruột lắm. 

Rồi một hôm anh bỗng nhiên nhìn thấy có con ba ba khổng lồ đang nổi lên trên mặt nước, nó bơi vào gần bờ nơi anh đang đứng, còn hỏi thăm xem anh có chuyện gì hay sao mà mấy ngày nay đều ngồi đợi ở đó. Anh học trò lại kể lại một lượt về chuyện khổ tâm của mình, rồi nói rằng điều anh mong ước nhất bây giờ là có thể gặp được một con thuyền hay một cái bè nào đó để anh có thể nhờ đi ra ngoài đảo kia. Ba ba khi nghe xong toàn bộ câu chuyện của anh thì nói:

– Vậy bây giờ anh hãy leo lên trên lưng của tôi đi, tôi rất sẵn lòng chở anh ra tận ngoài đảo kia. Tuy nhiên thì tôi muốn nhờ anh một chút, sẵn tiện anh hỏi chuyện Ngọc Hoàng thì hãy hỏi giùm tôi xem là tại sao tôi đã sống ở nơi này đã đủ một ngàn năm rồi nhưng mà mãi vẫn cứ giữ nguyên bộ dáng này chưa được thay đổi.

Anh học trò lại nhận lời giúp đỡ ba ba. Sau đó anh trèo lên lưng ba ba ngồi để nó rẽ nước rồi đưa anh băng qua không biết bao nhiêu sóng nước mênh mông. Hòn đảo ở xa tít mù khơi cũng ngày một rõ ràng hơn. Cũng không lâu sau thì chân anh cũng dẫm được lên hòn đảo kia. Tuy nhiên thì anh vẫn còn phải đi một quãng đường xa nữa, sau lại phải trèo lên trên đỉnh của một ngọn núi cao. Theo những lời chỉ dẫn mà anh biết thì nơi đây chính là nơi mà thi thoảng Ngọc Hoàng sẽ xuống nghỉ ngơi. Bởi vậy anh liền dừng chân tại đây, cố gắng chờ đợi cơ hội. 

Quả nhiên là không sai, anh học trò đợi khoảng ba ngày thì buổi sáng ấy, đột nhiên từ trên trời bay vụt xuống nơi đỉnh núi cao là một vầng sáng chói mắt. Ngọc Hoàng bước ra từ vầng sáng ấy rồi khoan thai bước tới ngự trên chiếc ngai chất đầy châu báu vô cùng rực rỡ. Nhìn thấy Ngọc Hoàng, anh học trò nghèo không chút rụt rè lập tức bước tới ngay trước mặt của Ngọc Hoàng quỳ xuống thỉnh cầu. Khi trông thấy anh thì Ngọc Hoàng liền chau mày hỏi:

– Nhà ngươi tới tận đây là muốn cái gì?

Anh học trò cũng không vội hỏi ngay việc của mình mà bắt đầu hỏi việc của con ba ba đã chở anh tới đây đầu tiên. Nghe anh hỏi xong thì Ngọc Hoàng liền bảo:

– Nó vẫn giữ khư khư hòn ngọc ở trong cổ họng nên mới không thể hóa kiếp được. Bây giờ chỉ cần nó nhả ngọc ra là lập tức được hóa kiếp.

Sau đó anh học trò lại tiếp tục tâu chuyện của người trồng cam. Ngọc Hoàng nói:

– Mấy cây cam đó không ra được quả bởi vì bên dưới gốc cây có vàng. Vì kim khắc mộc mới thành ra như vậy.

Anh học trò lại hỏi chuyện của nhà phú ông có người con gái bị câm từ nhỏ. Ngọc Hoàng lại đáp:

– Nó vẫn chưa nói được bởi vì chưa có trạng nào tới để mà khai khẩu giúp nó.

Anh học trò chuẩn bị hỏi tới chuyện của chính mình, nhưng nào ngờ Ngọc Hoàng vì thấy anh cứ hỏi mãi nên bực mình mà gắt lên:

– Thật là bực mình! Ta tới đây tưởng là có thể cách biệt với thiên đình kiếm tìm không gian yên tĩnh, ai ngờ bị mấy đứa trần gian tìm đến quấy rầy mãi.

Dứt lời Ngọc Hoàng cưỡi mây rồi bay luôn về trời. Thấy Ngọc Hoàng đã đi mất, anh học trò cho rằng đây là vận số của mình xui xẻo nên cũng đành ngậm ngùi mà quay trở về. Khi anh đến bên bờ biển thì đã trông thấy con ba ba khổng lồ chầu chực sẵn ở đó rồi. Nó lập tức bảo anh lên lưng rồi chở anh về đất liền, xong mới hỏi anh:

– Này anh, việc của tôi anh hỏi thế nào rồi?

– Bởi trong cổ của mày có viên ngọc, mày lại cứ khư khư giữ lấy nó không chịu nhả ra nên mới không hóa kiếp nổi đấy!

Nghe lời anh nói, ba ba lập tức nhả viên ngọc ra rồi biếu cho anh học trò, không lâu sau nó liền được đầu thai sang kiếp khác. Anh học trò lại trở về theo đúng con đường cũ anh đã đi qua. Khi đến nhà trồng cam, chủ nhà vội vàng chạy ra đón anh và hỏi:

– Này anh, việc của tôi anh hỏi thế nào rồi?

– Bởi vì có chôn vàng dưới gốc cây nên cây mới như vậy, bây giờ đào hết lên là cây sẽ có quả ngay.

Chủ nhà lập tức đi lấy cuốc thuổng tới đào thì thấy dưới mỗi gốc của cây cam đều có một chĩnh vàng. Chủ nhà vô cùng vui vẻ liền chia cho anh học trò một chĩnh vàng coi như trả công vì đã hỏi việc giúp mình. Rồi anh lại tiếp tục lên đường trở về. Lúc anh đi ngang qua nơi kinh thành, thấy không khí nơi này vô cùng tấp nập nên anh cũng tò mò mà vào nghía xem thử. Hóa ra là ở đây đang mở khoa thi chọn Trạng Nguyên.

Bởi có viên ngọc của ba ba mà anh học trò đột nhiên sáng dạ khác thường, kinh sử dù bao nhiêu thì cũng ôn đâu thuộc đấy. Bởi vậy anh quyết định nấn lá lại kinh thành. Cũng sẵn có vàng trong tay, anh liền đi sắm sửa đủ thứ, nào quyển thi, nào lều chiếu, còn có lễ vật… và cuối cùng thì anh cũng có được tên trong danh sách thí sinh ứng thí đợt này. Khoa thi năm ấy, bài văn của anh vô cùng xuất sắc nên được chánh chủ khảo đưa lên đầu bảng. Vua cũng khen ngợi vô cùng khi đã tìm được một nhân tài xuất sắc, xứng đáng liền phong anh học trò nghèo đậu Trạng Nguyên.

Không lâu sau đó thì Trạng cưỡi ngựa trở về vinh quy bái tổ. Cùng đi với Trạng còn có một đoàn lính theo tiền hô hậu ủng. Lúc đi ngang nhà của phú ông ngày trước, Trạng vẫn chưa quên lời hứa khi ấy của mình. Chàng lập tức dừng ngựa và ghé vào trong.

Phú ông ở nhà trông thấy bao nhiêu là quân gia nườm nượp kéo vào trong nhà mình thì vội vội vàng vàng chuẩn bị khăn áo chỉnh tề để chạy ra đón tiếp. Nhìn thấy quan Trạng tiến vào lại chính là anh học trò nghèo ngày trước tìm đường đi hỏi chuyện Ngọc Hoàng thì ông càng kinh ngạc hơn. Nhưng khi Trạng vừa chuyển câu nói của Ngọc Hoàng cho phú ông nghe thì cô gái câm đã từ trong buồng trong bước ra ngoài, nàng mỉm cười và cúi chào với Trạng, cũng tự nhiên cô thốt thành lời. Phú ông vô cùng mừng rỡ, để cảm ơn ân nhân giúp đỡ mình, phú ông liền ngỏ lời muốn gả con gái mình cho Trạng.

Truyện cổ tích Việt Nam: Sự tích thỏ tai dài đuôi ngắn

Ngày xửa ngày xưa ở trong một khu rừng kia có con cọp vô cùng hung dữ cùng với con heo rừng cực kì hung hãn. Hai con này, một thì cậy mình có được bộ móng vuốt sắc nhọn, còn một con thì lại cậy mình có được một bộ nanh rất dài, chúng cậy mình có ưu thế về sức mạnh nên ra sức mà bắt nạt những con vật khác ở trong rừng. Tất cả những loài vật khác ở trong rừng đều không thể nào có được cuộc sống yên bình vì sự tồn tại của hai con thú vô cùng hung ác là cọp và heo.


Vì vậy, vào một ngày kia, tất cả các loài vật đều kéo nhau và tìm đến nhà của thỏ, mục đích của chúng là muốn tìm ra cách nào có thể tiêu diệt được cả cọp lẫn heo rừng, có như vậy thì cuộc sống của những loài khác mới được bình yên. Tuy nhiên thì cũng cứ nghĩ mãi, nghĩ mãi nhưng vẫn không thể nào tìm ra được cách nào cả. Đột nhiên thỏ reo lên:

– Tôi đã nghĩ được rồi! Tôi đã nghĩ được rồi!

Thấy thỏ reo to như vậy thì tất cả những con vật khác cũng vô cùng vui sướng, chúng vây tròn lại xung quanh thỏ, và thỏ thì thầm với tất cả về kế hoạch của mình. Khi cả đám loài vật ấy nghe được thì con nào cũng phải thán phục trước mưu trí tuyệt vời của thỏ ta.

Sáng ngày hôm sau thì thỏ đi tìm cọp, nó gặp cọp ở một bụi rậm trong rừng. Thỏ mới thì thầm vào tai của cọp rằng:

– Này bác cọp ạ! Cái thằng heo rừng ấy, nó cứ luôn đi nói xấu rồi dọa dẫm bác đủ điều, vậy mà bác không biết chút gì sao?

Cọp nghe thấy thỏ nói vậy thì giận dữ lắm, nó gầm lớn:

– Cái gì cơ? Cái thằng heo rừng ấy mà lại dám đi nói xấu lại còn dọa dẫm ta nữa sao? Nó đã nói cái gì thế?

– Ôi chúa cha! – Thỏ ta liền làm bộ như bí mật lắm, nói: – Nó bảo rằng bác ấy mà, chỉ được cái miệng to, rồi răng to, lại còn cái mặt cũng to nốt nhưng lại nhát như cáy, nó chỉ dám đi bắt nạt đám dê cùng lũ heo nhà mà thôi. Heo rừng nó còn bảo là nếu như gặp bác thì nó sẽ đâm cho thủng bụng bác luôn.

Nói chuyện với cọp xong thì thỏ lại chạy đường tắt để tới tìm heo rừng. Đúng lúc ấy thì heo rừng vẫn đang nằm ngủ say sưa ở trong hang sâu. Nhìn thấy heo rừng, thỏ lập tức nhảy tới mà lay lay nó dậy, thỏ làm bộ như mình đang sợ hãi mà bảo:

– Này bác heo ơi! Bác mau trốn đi thôi! Cái thằng cọp ấy, nó đang chạy đi tìm bác để mà ăn thịt! Nó tuyên bố với mọi người là phải cắn được cổ con heo rừng đấy, bởi vì heo rừng chỉ biết phá mì và phá bắp thôi, có được tích sự gì đâu.

Nghe thỏ nói vậy thì heo rừng giận dữ lắm. Nhưng thỏ vẫn còn cố nói thêm vài câu:

– Thằng cọp ấy còn bảo là phải cắn bằng được cổ của bác, còn muốn xem tim của bác có to hay không nữa.

Heo rừng thì vốn bản tính lì lợm, ngang ngạnh, nên khi nghe thỏ nói những lời đó thì nó chẳng thèm nói năng gì mà xộc đi tìm cọp ngay. Và hai con vật có tiếng là hung dữ nhất nhì của khu rừng này đã giáp mặt nhau. Gặp nhau chúng bắt đầu mắng nhiếc và xỉ vả đối phương vô cùng thậm tệ. Con cọp thì bảo heo rừng chỉ là cái loài chết đói. Còn heo rừng lại rủa cọp sẽ bị con quỷ Briơng làm thịt. Càng ngày chúng lại càng hăng máu hơn, tuy nhiên thì cả hai con vẫn còn có chút kiêng kị lẫn nhau. Vì vậy chúng quyết định hẹn nhau bảy ngày nữa thì sẽ tới để cùng đọ sức.

Trong thời gian bảy ngày như hẹn đã định, cọp ta cứ lăn mình ở trên đồi toàn cỏ tranh để mà luyện tập cho người khỏe hơn. Cả đồi toàn cỏ tranh ấy đã bị cọp lăn đến mức xơ xác luôn. Cọp còn định bụng trận này phải ăn sạch thịt heo rừng cho hả giận nữa.

Về phần của heo rừng, trong thời gian bảy ngày ấy nó cũng tập lăn lộn ở trong bùn suốt, vậy là bùn cứ trát lên da nó từ lớp này đến lớp khác dầy bịch. Heo rừng thầm nghĩ sẽ làm cho mấy cái răng của cọp gãy sạch, rồi đâm cho cọp phải lòi ruột ra cho nó hết cái thói mở miệng là ba hoa đi.

Qua bảy ngày, thời gian hẹn cũng đã tới, cọp cùng với heo rừng đồng thời tới chỗ trảng lớn ngay ven suối. Hai con chẳng hề mở miệng nói với nhau một lời nào mà chỉ lẳng lặng mà xông tới cắn xé đối phương. Còn thỏ ta, kẻ bày ra mưu này thì đang yên vị ở một chỗ an toàn trên cây thông, nó hò hét vô cùng ầm ĩ, mục đích chính là cổ động, khích bác để cho hai con vật ở bên dưới đánh nhau đến chí tử mới thôi.

Cọp đánh nhau với heo rừng cho tới tận khi trời đã tối mịt, nhưng chúng vẫn tiếp tục đánh nhau quên cả trời đất cho tới hết ngày hôm sau nữa. Cọp rất nhiều lần cắn vào người heo đến mức gãy mất mấy cái răng liền. Trên thân của heo rừng cũng là chi chít những vết thương lớn nhỏ. Chúng đánh nhau tới mức máu cũng chảy đầm đìa hết cả, rồi lại cùng nhau gầm lên đầy giận dữ, cũng đầy đau đớn. Tất cả thú vật ở trong rừng đều im lặng tuyệt đối để mà theo dõi trận đấu sống còn giữa hai tên chúa rừng. Duy nhất có thỏ vẫn đang vắt vẻo trên cây thông hò hét vô cùng nhiệt tình khiến cho hai con vật kia đánh nhau càng hăng máu hơn.

Cho tới ngày thứ ba của trận đấu, heo rừng thì bị què mất một chân, cọp thì lại bị mù mất một con mắt. Rồi chúng lảo đảo mà lao vào nhau một lần cuối. Cuối cùng cả hai đều lộn nhào xuống dưới suối. Bởi vì bị thương rất nặng nên chúng chìm nghỉm, chẳng con nào còn sức để mà bơi lên bờ nữa cả.

Vào đúng cái lúc mà tất cả các loài vật ở trong rừng đều đua nhau kéo tới suối để nhìn xem xác của hai con vật nổi tiếng hung ác chết vì đánh nhau kia, đột nhiên thỏ thấy đuôi của mình bị dính vào chỗ thân cây thông nó ngồi, hóa ra là nhựa thông chảy ra đã dính chặt đuôi nó vào cây. Thỏ cố gắng đứng dậy và vùng vẫy nhưng lại không cách nào thoát ra được. Vậy nó đành phải ngồi lại suy nghĩ, cứ nghĩ mãi, rồi nó bỗng nhiên lại nghĩ ra một cách. Thỏ ngồi đó chờ cho đúng lúc voi vừa từ trong rừng đi ngang qua, lập tức hét to:

– Mau dừng lại! Nơi này là suối nước của ta đây. Bất kể ai ra đây cũng cần xin phép ta!

Voi đứng sững lại, nó vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy tiếng quát vừa rồi là của một con thỏ. Nó thầm nghĩ: “Chỉ là một con thỏ nhãi nhép mà lại dám giương oai mà bắt nạt một con voi to lớn như mình!” Rồi voi lại đi tiếp. Nhưng thỏ vẫn cứ quát lớn:

– Mau dừng lại! Nơi này là suối nước của ta đây. Bất kể ai ra đây cũng cần xin phép ta! Nếu không ta sẽ thịt sống kẻ đó!

Lần này thì voi thực sự bực mình rồi, nó dừng lại ngay dưới gốc cây thông, đưa vòi ra túm chặt lấy tai thỏ, rồi dùng sức để nhấc nó lên khỏi cây, sau đó thì ném nó sang chỗ khác. Thỏ bị ném thì đau điếng lắm, nhưng trong bụng lại hết sức vui mừng vì đã thoát nạn, nó cứ cắm đầu cắm cổ mà chạy vào sâu trong rừng.

Bởi vì thỏ bị voi túm tai khiến cho đôi tai của nó dài ra. Về phần đuôi thỏ tại sao sau này lại ngắn cũn cỡn như vậy thì là do một phần đuôi của nó đã bị đứt và vẫn còn dính chặt ở cây thông khi ấy.

Cha mẹ nuôi con bể hồ lai láng, con nuôi cha mẹ kể tháng kể ngày

Ngày xửa ngày xưa, cơ đôi vợ chồng nhà nọ rất hiền lành, chăm chỉ làm ăn quanh năm suốt tháng. Họ đã có nhau ba mặt con, đều là những cậu con trai kháu khỉnh, luôn được bố mẹ thương yêu, chăm chút. Hai vợ chồng nhà họ vốn chịu thương chịu khó làm ăn, nên cũng tích trữ được nhiều của cải tiền bạc. Mặc dù vậy nhưng họ vẫn luôn tiết kiệm trong việc ăn mặc, chỉ mong đề dành dụm được gia sản cho những người con của mình. Cho đến khi cưới vợ xong cho người con trai thứ ba thì người chồng nói với vợ:

– Cả đời hai vợ chồng chúng ta vất vả làm ăn, cũng tạo được chút ít của cải. Đến nay cả hai ta đều đã đến tuổi xế chiều, chuẩn bị gần đất xa trời, vậy chúng ta nên chia tài sản cho các con để làm ăn. Như vậy cuộc sống của đứa nào cũng sẽ được ổn định, khấm khá hơn mà sau này không sợ phải tranh giành nhau nữa.


Người vợ nghe chồng nói vậy thì đồng ý, ông liền cho mời bà con họ hàng, làng xóm đến để chứng thực. Ông chỉ để lại phần ít nhất trong số tài sản ấy để hai vợ chồng dưỡng bệnh lúc tuổi già, còn lại chia đều tất cả tài sản cho các con.

Mặc dù đã hơn 60 tuổi nhưng vẫn còn rất minh mẫn, khỏe mạnh và luôn ham mê công việc kinh doanh. Sau khi phân chia tài sản cho các con xong, hai vợ chồng già lại quay lại với công việc làm ăn của mình. Phần tiền mà trước đó định để dưỡng già đã được ông lấy là làm vốn liếng cho công việc kinh doanh. Mặc dù chỉ có hai vợ chồng già tất bật làm ăn nhưng may mắn là công việc rất thuận lợi, đem về những khoản lợi nhuận lớn, cứ lãi mẹ đẻ lãi con, khối tài sản của hai vợ chồng ngày một gia tăng. 

Chỉ khoảng năm, sáu năm sau, hai vợ chồng ông lại có một cuộc sống vô cùng sung túc, dư dả. Trong khi đó, ba đứa con trai của vợ chồng ông, đứa thì chưa có kinh nghiệm làm ăn, đứa thì ham chơi, lười nhác nên đều không gây dựng được sự nghiệp, khối tài sản được bố mẹ chia cho trước đó đã sớm vị tiêu tan.

Một ngày kia, ba đứa con trai đến gặp bố mẹ và nói:

– Cả bố mẹ hiện nay đều đã cao tuổi, không còn thích hợp với công việc chợ búa, làm ăn nữa. Chúng con có ý rằng bố mẹ nên nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng tuổi già. Còn phần tài sản của bố mẹ, xin hãy giao cho chúng con quản lý để làm ăn. Chúng con xin được phụng giưỡng bố mẹ đến cuối đời.

Ông già nghe các con nói vậy liền trả lời rằng:

– Bố mẹ cũng rất muốn như vậy. Nhưng xưa nay bố mẹ nuôi con thì dễ, còn con nuôi bố mẹ lại là chuyện không hề đơn giản.

Ba người con trai vội tiếp lời:

– Xin bố mẹ hãy yên tâm, đừng lo lắng gì cả. Những người khác dù không có tiền bạc cũng nuôi được bố mẹ mình, huống chi bố mẹ có khối tài sản lớn như vậy, cớ sao lại lo lắng chúng con không thể nuôi được?

Ông già trầm ngâm suy nghĩ một lát rồi nói:

– Vậy thì ba tháng sau ta sẽ cho các con câu trả lời.

Ở bên cạnh ngôi nhà của hai vợ chồng ông lão có một vườn cây tốt sum suê, chim muông tới đậu hót líu lo suốt cả ngày. Vào một ngày, ông nhờ những đứa trẻ trong xóm trèo lên cây để tìm cho ông một tổ chim. Mấy đứa trẻ con vừa trèo lên cây một lúc đã đem xuống cho ông một tổ chim gồm có một đôi vợ chồng chim chào mào mà hai con chim non. Ông phóng sinh thả cặp chim bố mẹ đi rồi làm một cái lồng thật đẹp, cho hai con chim non vào đó. Ông treo chiếc lồng có hai con chim non lên cây. Hàng ngày, đều có tiếng hót líu lo của chim bố mẹ, mang thức ăn đến, thò cổ và đút vào cho con. Ông thầm nghĩ rằng loài chim thật là tình nghĩa, dù hai con chim non bị bắt nhưng chim bố mẹ vẫn không chịu bỏ.

Cho đến khi hai con chim non đã khôn lớn thì ông thả chúng đi, và nhờ bọn trẻ bắt lại hai con chim bố mẹ. Nhưng ngay khi vừa được thả đi thì hai con chim non đã đập cánh bay đi mất hút mà không quay trở lại nữa, mặc cho hai con chim bố mẹ bị nhốt trong lồng. Ông già buồn lòng nghĩ: “Thật là bội bạc! Những con chim non còn chẳng nghĩ tới chuyện trở về, huống chi là đút mồi cho chim bố mẹ”. Qua sự việc được chứng kiến của loài chim, ông già nghĩ rằng “ Con người cũng như vậy. Chỉ có chuyện trả nợ xuống chứ không thể có chuyện trả nợ lên”.

Ba tháng trôi qua thật nhanh, ba người con trai lại đến, mong nhận được câu trả lời của bố mẹ. Ông già liền kể cho ba đứa con của mình nghe lại câu chuyện về gia đình chim chào mào. Rồi ông chậm rãi nói:

– Không phải bố mẹ có của cải mà không muốn để lại cho các con. Khi chết đi, ta cũng chẳng thể mang theo thứ gì. Nhưng bố mẹ vẫn nghĩ rằng các con có thể chăm sóc những đứa con của mình tốt hơn là chăm sóc bố mẹ. Hơn nữa, lúc khấm khá còn nhiều tình nghĩa, đến khi các con túng thiếu liệu có nghĩ đến cha mẹ nữa không? Vì thế nên ta nghĩ rằng, ta và mẹ các con ở riêng thế này sẽ tốt hơn, làm được gì thì ăn nấy, không phải nhờ vả hay làm bận lòng các con.

Nghe bố mình nói vậy thì ba đứa con thề thốt hết lời. Cả ba đứa con nếu hứa sẽ chăm sóc bố mẹ chu đáo dù có giàu sang hay nghèo hèn, kể cả phải đi ăn xin về nuôi bố mẹ. Thấy vậy, bà vợ cũng bảo với ông rằng:

– Các con đã thề thốt như vậy, ông cũng nên nghĩ lại. Đó chỉ là câu chuyện của loài chim, nhưng con người sẽ khác mà ông.

Nghe vợ và các con nói vậy, cuối cùng, ông già đành đồng ý để lại gia sản cho các con một lần nữa.

Ba năm đầu tiên, cả ba người con đều chăm sóc bố mẹ hết sức chu đáo. Dù có đi làm ăn ở đâu, cứ hễ có của ngon vật lạ thì đều mua về biếu bố mẹ. Nhưng việc đó cũng không kéo dài được lâu, càng về sai thì công việc chăm sóc bố mẹ càng trở nên chểnh mảng. Đến khi công việc làm ăn của cả ba người con đều không thuận lợi, thì họ cũng chẳng còn mặn mà với việc chăm sóc bố mẹ nữa. Không những thế, vợ của ba anh em là ba chị em dâu, nên càng xét nét việc này, họ so đo từng chút tiền bạc, cơm gạo cho bố mẹ chồng. Ban đầu, cả ba anh em đều góp tiền vào để lo cho bố mẹ nhưng về sau thì việc đóng góp không còn được đầy đủ nữa. 

Họ bàn bạc nhau hãy để cho bố mẹ ở chung với mỗi nhà một năm, rồi luân phiên giữa ba anh em. Nhưng ai cũng sợ bị thua thiệt, họ nghĩ rằng nếu bố mẹ chưa kịp ở với ai mà mất sớm thì người còn lại sẽ được nhiều lợi hơn. Ba anh em liền rút thời hạn chăm sóc bố mẹ xuống còn nửa năm, sau đó lại ba tháng…và cuối cùng họ quyết định là một tháng. Nhưng hai vợ chồng già ngày càng lớn tuổi, sức khỏe càng bị yếu đi mà công việc chăm sóc của con cái lại càng chểnh mảng. Ai cũng chỉ mong hết thời hạn một tháng để được tống khứ bố mẹ đi.

Chưa đầy một năm sau, phần vì đói, phần vì bệnh tật, cả hai vợ chồng già lần lượt qua đời. Từ đó mà trong dân gian có câu:

“ Cha mẹ nuôi con bể hồ lai láng

Con nuôi cha mẹ kể tháng kể ngày”.

Truyện cổ tích Việt Nam: Con vợ khôn lấy thằng chồng dại

Ngày xưa, ở làng nọ có một người con gái làm nghề dệt vải. Mặc dù là một người  có bản tính nhanh nhẹn, tháo vát và rất thông minh nhưng nàng lại lấy phải một người chồng đần độn, không làm được gì ra hồn cả. Một ngày nọ, nàng đưa cho chồng mình vài tấm vải rồi bảo chồng hãy đem ra chợ bán lấy tiền để mua gạo. Nàng cẩn thận dặn dò chồng: “ Nếu mọi người không được trả giá bốn quan một tấm thì anh không được bán đâu đấy nhé!”


Người chồng nghe lời vợ căn dặn xong thì đem vải đi khắp chợ, mặc dù đã cất giọng rao khản cổ mà không có ai chịu mua cho. Mãi một lúc lâu sau đó mới có một ông lão đến mua cho anh hai tấm vải , nhưng ông lão này lại bảo rằng không mang theo tiền. Ông ta nói:

– Một lát nữa anh đến nhà tôi để lấy tiền nhé! Tôi không quỵt tiền của anh đâu, nhà tôi ở gần ngay đây, trong cùng xa với nhà anh thôi đấy.

Hắn ngờ vực hỏi:
– Hãy nói cho tôi biết nhà ông ở chỗ nào?

– Tôi ở chỗ: “chợ đông không ai bán, chỗ kèn thổi tò le, chỗ cây tre một mắt”. Anh cứ tìm đến nơi đó  thì sẽ gặp tôi, tôi sẽ trả tiền vải cho anh.

Đến tận chiều hôm đó, hắn mới đi tìm chỗ của ông già mua vải ban sáng. Hễ gặp ai là hắn hỏi thăm nơi ông già kia đã bảo, nhưng khổ nỗi không ai biết “ chỗ chợ đông không ai bán, chỗ kèn thổi tò le, chỗ cây tre một mắt” là ở đâu cả. Mọi người chỉ nói với hắn rằng:

– Trên đời này không có nơi nào như thế đâu, chắc anh đã mắc lừa ông già bịp bợm đó rồi.

Hắn đi cả buổi mà không thể tìm thấy nơi ông già đó ở, không thể đòi được tiền vải. Hắn chỉ biết ôm mặt khóc nức nở rồi trở về nhà.

Về đến nhà, kể sự tình câu chuyện cho người vợ nghe, vợ hắn bảo:

– Nơi đó cũng thật dễ tìm, “chỗ chợ đông không ai bán” là trường học. “chỗ kèn thổi tò le” chính là cây lau vì mỗi khi có gió thổi thì sẽ có tiếng kêu giống như tiếng thổi của kèn sáo, “chỗ cây tre một mắt” là bụi tỏi hay hành gì đấy. Như vậy, bây giờ anh phải đi tìm ông ấy ở gần nơi trường học, cạnh đó có bụi cây lau và trước cửa phải có vườn hành hoặc tỏi.

Sau một hôm tìm kiếm thì anh ta tìm được đúng nơi như người vợ nói. Ông lão mua vải của anh hóa ra là một thầy đồ. Gặp được ông lão mua vải, anh vui như bắt được vàng. Ông thầy đồ cũng rất bất ngờ, ông hỏi anh rằng ai đã mách cho anh biết chỗ này, anh ta trả lời:

– Tôi đã đi tìm ông suốt cả ngày hôm qua mà không thấy, tôi tưởng rằng đã bị ông ăn quỵt mất tiền vải thì may sao có vợ tôi nói cho tôi biết.

Nghe anh ta nói vậy, ông thầy đồ thầm nghĩ rằng đây quả là một cô gái có trí thông minh hơn người. Nhân hôm đó nhà ông có tổ chức đám giỗ, ông thầy đồ mời anh bán vải ở lại ăn cỗ. Anh ta chẳng nề hà gì, cắm cúi đánh chén no nê, và nhận phần quà của ông thầy đồ gửi cho vợ. Nhưng đến lúc trả tiền thì ông thầy đồ lại lấy một gói khác đưa cho anh ta, dặn mang về đưa cho vợ. Anh ta không hiểu gì nhưng vẫn cứ cầm gói đồ mang về nhà.

Người vợ nhận được gói đồ từ tay chồng mình, mở ra thì thấy ở bên trong có một bãi phân trâu và một cành hoa nhài cắm ở giữa, hiểu ngay ra ý ông thầy đồ muốn châm chọc mình rằng:

“Con vợ khôn mà lấy phải thằng chồng dại

Thì như một bông hoa nhài cắm vào bãi phân trâu”

Càng suy nghĩ về bọc quà của ông thầy đồ, cô gái càng cảm thấy bực tức mà trách mắng chồng ngu dốt, lại đem món quà với ẩn ý chua cay của ông thầy đồ về cho mình. Rồi nàng suy nghĩ về thân phận mình, cũng tự vấn bản thân tại sao có biết bao nhiêu người theo đuổi, lại đi lấy một anh chồng dốt nát, không được tích sự gì. Trong lúc quẫn trí vì cuộc đời hẩm hiu của mình, nàng đi ra bờ sông với ý định tự vẫn để kết liễu cuộc đời.

Về phần ông thầy đồ, nghĩ lại việc mình đã trêu chọc vợ anh bán vải có phần quá đáng, ông sợ rằng người vợ ấy có hành động dại dột thì ông sẽ mắc tội rất lớn. Nghĩ vậy, ông bèn chuẩn bị một cái giỏ đựng cá và một cái cần câu rồi đi dọc bờ sông, ông vừa đi vừa ngóng nhìn xung quanh. Đi được một đoạn thì ông thấy một người phụ nữ đang ngồi ôm mặt khóc nức nở bên bờ sông. Cũng đoán được đây là vợ anh bán vải ngốc nghếch, ông lại gần, để giỏ cá xuống và nói:

– Mời cô hãy tránh ra chỗ khác để tôi ngồi đây câu cá nào.

Chị vợ anh bán vải ngước mắt lên nhìn với hai hàng nước mắt, thì thấy một ông lão tóc đã bạc phơ lại đem một chiếc giỏ bị thủng đáy đi câu. Nàng ta thầm nghĩ: “ Người này quả thực ngu dốt không ai sánh bằng. Chồng mình tuy vốn ngu dốt nhưng cũng không đến mức độ đem một chiếc giỏ thủng đáy đi câu cá. Vậy là chồng mình vẫn hơn những người khác sao?”. Nghĩ vậy, chị ta không còn ý định tự vẫn nữa, đứng dậy và trở về nhà.

Truyện cổ tích Việt Nam: Sự tích động Từ Thức

Ngày xửa ngày xưa, ở Châu Ái thời nhà Trần có chàng trai trẻ tên Từ Thức, vốn là con trai của một nhà quan. Đến năm 20 tuổi, chàng nhờ vào học giỏi nên đi thi được đỗ cao, sau đó được bổ nhiệm trở thành tri huyện tại một huyện ở vùng Bắc. Từ Thức khác hẳn với những bọn quan lại khác cùng thời, chàng là một người vô cùng phóng khoáng, lại chẳng bao giờ chịu sự ràng buộc bởi những khuôn phép vốn có. Hơn nữa là chàng rất không thích mấy chuyện như nịnh trên rồi nạt dưới, hứng thú của chàng chỉ là uống rượu và ngâm thơ, rồi lại đi chơi mà ngắm cảnh thôi.

Ở gần huyện mà Từ Thức tới nhậm chức có một ngôi chùa rất lớn. Ở ngay trước sân chùa cùng với chung quanh vườn chùa toàn bộ đều trồng cùng một loại mẫu đơn. Vào khoảng tầm tháng Giêng hằng năm chính là mùa để hoa nở rộ, đó cũng là thời điểm kỳ cúng Phật đã tới. Nhân dịp ấy thì các thiện nam cùng tín nữ ở khắp mọi nơi đều đua nhau về đây để lễ Phật, ngắm hoa. Bởi vậy nên người ta còn gọi đây là hội xem hoa, hoặc gọi nó là hội mẫu đơn.


Một năm nọ vào đúng kỳ hội xem hoa, bỗng niên Từ Thức có cái hứng thú đi hành hương để ngắm cảnh. Vì không muốn làm kinh động tới dân chúng nên Từ Thức liền cải trang trở thành một anh học trò. Đồng thời chàng cũng không đem theo lính hầu cũng như cáng xá theo bên mình. Thời này bởi vì nhiều chùa chiền rất được triều đình nể nang, kính trọng nên có không ít sư sãi cậy thế mà hoành hành ngang dọc.

Để bảo vệ cho những khóm hoa trong chùa thì chùa liền đặt ra một lệ là ai bẻ hoa hay là làm gãy cây thì sẽ bị phạt vạ bằng một khoản tiền. Nếu như người đó không có tiền để nộp phạt vạ thì nhà chùa lập tức bắt người đó làm nô để mà đền nợ.

Vào ngày hôm ấy, một cô gái cũng tới xem hội, cũng chỉ vô tình mà không rõ lệ của nhà chùa, nhìn thấy những bông hoa nở rộ xinh đẹp ngay bên những lối đi thì vươn tay ngắt ngay một bông. Bọn thủ hộ ở trong chùa nhìn thấy liền xông ra và bắt giữ ngay cô gái ấy đòi tiền phạt vạ. Nhưng cô gái ấy lại nói là đi xem hội nên không có mang theo tiền bạc gì, bây giờ trên người cũng không có đồ gì quý giá để mà đền cho chùa. Đám thủ hộ nghe xong lập tức trói gô cô gái ấy vào cột chùa để mà làm nhục, ép vặn cho cô phải đưa ra tiền chuộc mới thôi.

Vào đúng lúc ấy thì Từ Thức cũng tiến vào trong cổng chùa. Chàng trông thấy một cô gái vẻ yếu đuối bị cả đám vũ phu xúm vào lăng nhục, chàng lúc này cũng không thể nào ngăn được cơn tức giận của bản thân. Từ Thức lập tức chạy tới yêu cầu đám người kia cởi trói thả cô gái ấy ra. Nhưng mà đám thủ hộ thì nhất định không chịu thả, còn chỉ thẳng vào mặt của chàng mà nói:

– Nếu như anh không có được một quan tiền để mà chuộc thì chớ có đụng tới cái dây trói, kẻo sinh ra lắm chuyện rầy rà đừng trách.

Từ Thức nghe xong những lời thách thức ngông cuồng của đám thủ hộ thì cơn giận lúc này cứ bừng bừng mà bốc cháy. Chàng toan dùng tới chức vị của bản thân để mà trị cái đám bất lương này, nhưng sau đó chàng lập tức gạt đi bởi vì cũng chẳng muốn xé to chuyện này làm gì. Chẳng nghĩ ngợi nhiều, chàng cởi luôn chiếc áo ngoài của mình rồi ném cho đám thủ hộ kia để mua lại tự do của cô gái. Khi dây trói vừa được cởi ra, cô gái hết lời cảm tạ sự giúp đỡ của Từ Thức. Vì thấy nàng rất xinh đẹp, tính cách cũng bạo dạn, vì vậy Từ Thức cũng có ý muốn được làm quen. Vì vậy chàng liền hỏi:

– Nhà nàng ở nơi nào? Tôi nghe giọng của nàng thì hình như là không phải người ở vùng này thì phải?

Cô gái cũng đáp lại lời chàng:

– Quê của thiếp ở mãi trong Châu Ái thuộc huyện Tống Sơn…

Từ Thức không ngờ tới người đẹp này lại là người cùng quê với mình, vì vậy chàng lại càng thêm niềm nở hơn. Sau đó hai người cùng nhau men theo lối ra cổng chùa, rồi vừa đi lại vừa đôi câu ngỏ lời tâm sự với nhau. Trước lúc nói lời giã từ, nàng cũng không quên ngỏ lời mời Từ Thức nếu có dịp trở về thăm quê thì hãy ghé qua nhà nàng chơi.

Vốn không hề ưa cái nghề dùng roi vọt để trị dân nên Từ Thức thường xuyên bị cái bọn quan trên giở thói hạch tội đủ đường. Một lần nọ vì chàng để chậm trễ vụ thuế nên viên an phủ liền gọi chàng tới để trách mắng rất nặng lời. Chàng chán nản mà than thở:

– Ta há lại chỉ vì mấy bó thóc rồi chịu nhục đủ đường như vậy sao!

Lúc nàng trở lại huyện lỵ, chẳng ngần ngại chút nào, chàng cởi bỏ hết ấn tín rồi treo ngay trước mái của công đường, sau đó thì bỏ đi. Chàng đi thẳng một mạch trở về nơi quê hương đất tổ để thăm nom cha mẹ mình cũng như bà con láng giềng. Chàng cũng chỉ ở lại nhà ít lâu, rồi nhớ tới lời mời tới chơi nhà của cô gái xinh đẹp ở hội xem hoa ngày trước, vì thế chàng lại cất công đi xa.

Chàng cứ đi theo lời chỉ dẫn của cô gái ngày ấy, cứ thế mà lặn lội đi kiếm tìm rất lâu, nhưng mà vẫn mịt mù, chẳng thấy bóng chim hay tăm cá gì cả. Ở vùng Tống Sơn ấy có bao nhiêu là cảnh đẹp thì nơi nào cũng in lại dấu chân cùng những bài ca bài vịnh của chàng, dù vậy chàng vẫn không hề cảm thấy ân hận một buổi gặp gỡ cùng người đẹp khi xưa. Và chàng cũng không hề nản lòng, vẫn cất công tìm kiếm mãi.

Trên đường tìm kiếm, vào sáng sớm của một ngày nọ, Từ Thức trèo lên tận đỉnh núi cao nhất, rồi ra cửa Thần Phù. Đột nhiên trước mắt của chàng xuất hiện một hòn đảo nhìn y như một đóa hoa sen ở giữa vùng biển cả bao la vậy. Chàng đứng lại ngắm nhìn rất say sưa, sau đó lập tức tìm lấy một cánh buồm mà dong ra khơi xa.

Cũng không mất quá nhiều thời gian thì thuyền cùng cập bến đảo. Chàng lại mải mê nhìn khung cảnh chung quanh, rồi bỗng trông thấy ở ngay nơi sườn đá hình như có một cái cửa hang khá rộng rãi, chàng liền vạch cây và rẽ cỏ để tìm tới tận nơi ấy. Khi chàng bước vào trong cửa hang một đoạn thì cửa hang đột nhiên tối sầm đi. Nhưng Từ Thức thì vẫn cứ sờ soạng lung tung mà bước liều tiến về phía trước.

Từ Thức mò mẫm đi được một quãng khá dài thì đột nhiên thấy xuất hiện ánh sáng le lói. Khi chàng nhìn ngược lên thì thấy những dãy núi cao chót vót, và đá thì mọc lởm chởm cả. Chàng lại tiếp tục leo lên trên đỉnh núi, và quang cảnh nơi này được rộng mở ngay trước mắt chàng. Từ Thức trông thấy được cả một tòa lâu đài vô cùng lộng lẫy. Chưa hết ngạc nhiên trước sự vĩ đại của quang cảnh nơi này thì chàng lại đột nhiên nhìn thấy bóng của hai cô gái nhỏ khoác áo màu xanh. Một cô gái tiền lên trước nói:

– Hóa ra là chú rể mới của nhà ta đã đến rồi kìa!

Từ Thức vô cùng bỡ ngỡ trước tình huống này, nhưng là chàng vẫn bạo dạn theo sau hai cô gái nhỏ. Trên đường đi hai bên đều mọc đầy những loại hoa thơm cùng cỏ lạ mà chàng chưa thấy bao giờ. Chỉ đi một lát thì đã đến ngay trước lâu đài nguy nga, lộng lẫy kia. Khi chàng vừa đặt chân lên đến thềm thì có một người đàn bà vô cùng quý phái tiến lại đón tiếp. Bà tươi cười mà nói với chàng:

– Nơi này là hang thứ sáu trong số ba mươi sáu hang động trên cõi tiên. Ta đã cai quản nơi này từ rất lâu rồi. Thật may mắn khi ngày hôm nay có thể được đón tiếp một người trẻ tuổi chí tình lại phong nhã. Thế nào, những cảnh trí ở nơi này có khiến du khách cảm thấy thích thú không vậy?

Chỉ thấy Từ Thức nhẹ gật đầu, và người đàn bà kia lại nói tiếp:

– Gượm đã. Còn phải cho ngươi gặp được người quen cũ chứ.

Nói đoạn thì bà liền ra hiệu cho một người hầu gái. Chỉ một lát sau thì một nàng tiên đi ra từ hành lang dài, dáng người nàng kiều diễm thướt tha, nàng khẽ mỉm cười mà chào chàng. Khi nhìn kĩ lại thì Từ Thức cũng nhận ra người mới tới chính là cô gái xinh đẹp bẻ cành hoa mẫu đơn ngày nào. Vì vậy chàng vô cùng mừng rỡ mà nói:

– Ô hay thật! Tôi đã đi khắp các nơi để tìm nàng mà chẳng thấy, thật không ngờ lại được gặp nhau ở nơi này!

Câu chuyện cũng kể từ giây phút ấy mà trở thành thân mật và đậm đà hơn rất nhiều. Bà chúa động hiền từ bảo:

– Tên của em nó là Giáng Hương. Vì ngày trước đi xem hội hoa mẫu đơn bất ngờ gặp rủi, may nhờ có chàng đây tận tình mà cứu giúp. Âu thì đó cũng gọi là duyên trời định. Chàng cũng có lòng bỏ công sức đi tìm kiếm, nay đã gặp được nhau nơi này, vậy thì hãy mở tiệc hoa cho thỏa lòng khao khát.

Việc này khiến cho Từ Thức cảm thấy không gì có thể đẹp lòng hơn nữa rồi. Ngay trong đêm ấy, tại bữa tiệc có đủ quần tiên về tụ hội tưng bừng, Từ Thức cùng nàng tiên Giáng Hương liền làm lễ giao bôi. Và khách tiên từ tất cả các động đều tới chung vui, cùng nhau cạn chén để chào đón chàng rể mới tới nhập tịch vào làng tiên, rồi lại cùng nhau chúc mừng cho một mối tình duyên vô cùng tốt đẹp.

Rồi ngày lại nối ngày mà qua đi, Từ Thức tới làm rể ở cõi tiên cũng ngót ba năm rồi. Cuộc sống mới ở nơi này hoàn toàn khác xa với cuộc sống nơi trần gian thuở trước của chàng. Ở nơi này mọi thứ từ cơm ăn đến áo mặc, cùng tất cả những vật dụng cần có chàng đều được chu cấp sẵn, không hề thiếu thốn dù chỉ một thứ. Chàng còn có được một người vợ có sắc đẹp tuyệt trần, lại vô cùng hiền dịu là nàng Giáng Hương, nàng lúc nào cũng có thể khiến cho chàng cảm thấy thỏa dạ cả. Không chỉ vậy, chàng còn được nay đây mai đó, ngao du từ động tiên này tới động tiên khác, hết làm thơ lại ngâm vịnh, cứ thao thao bất tuyệt không thôi.

Tuy nhiên thì thời gian cứ dần trôi qua, Từ Thức đột nhiên lại cảm thấy mình như thiếu điều gì đó. Một ngày nó chàng liền tìm Giáng Hương để tâm sự:

– Ta đây xa cha ngái mẹ cũng đã lâu rồi, giờ muốn được về thăm nhà một chuyến thì có được hay không?

Trông thấy vợ mình ngần ngừ, chàng bèn nói:

– Tôi chỉ muốn trở lại thăm nom cha mẹ, gặp bà con láng giềng lần chót, sau đó thì tôi sẽ trở lại đây và chung sống với nàng mãi mãi.

Giáng Hương thấy chồng như vậy cũng hết lời thủ thỉ mà khuyên dỗ chồng mình nên bỏ hết những suy nghĩ trở về đi. Bởi vì nơi cõi tục cùng nơi cõi tiên chính là hai con đường hoàn toàn cách biệt nhau. Tuy nhiên, Giáng Hương ra sức khuyên bảo nhiều thế nào thì nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương của Từ Thức lại càng nặng hơn bấy nhiêu. Khi nhìn chồng đã không còn đòi trở về nhưng nét mặt lại ngày càng héo hon hơn thì nàng đành phải đi thưa chuyện với mẹ mình. Mẹ nàng cũng thương hại mà nói:

– Ta cũng không ngờ là nó còn lưu luyến nơi bụi hồng nhiều như vậy!

Nói đoạn bà sai người đem xe mây tới để đưa Từ Thức về lại nơi trần gian. Từ Thức vội vàng nói lời giã từ cùng vợ và mẹ vợ của mình, giã từ mấy bạn ở cõi tiên, sau đó bước lên xe mây. Cũng chỉ trong một cái chớp mắt, chàng đã lại thấy được quê hương xưa cũ của mình. Chàng thấy được những dãy núi, những con sông, nhưng lũy tre đều không khác khi xưa lúc chàng ra đi là mấy. Xe mây đưa chàng đặt xuống nơi bến sông, cái nơi mà ngày trước khi còn nhỏ chàng cũng hay ra đấy cùng chúng bạn tắm mát, bơi lội. Tuy nhiên thì khi nhìn kĩ tất cả mọi vật chung quanh thì chàng cảm thấy ngờ ngợ, có gì đó không đúng lắm. Chỉ mới có ba năm thôi mà sao nhà cửa cùng vườn tược ở nơi này đã đổi khác nhiều. Dân làng ở đây cũng chẳng thấy có người nào trông quen mặt cả.

Khi chàng kéo một người đi đường lại hỏi chuyện thì người ấy nói với chàng đúng tên làng là nơi chôn rau cắt rốn của chàng. Nhưng khi chàng hỏi tới cha mẹ cùng em gái của mình thì tất cả mọi người đều lắc đầu bảo không hề biết. Cuối cùng chàng đành đem tên họ của mình ra để hỏi thăm mấy cụ già ở trong làng, có một người ngẫm nghĩ rất lâu mới trả lời chàng:

– Hồi còn nhỏ xíu tôi cũng có nghe chuyện kể lại rằng trong số cụ tổ năm đời của nhà tôi có một cụ tên họ là Từ Thức, trước cụ ấy làm quan huyện nhưng lại treo trả ấn rồi trở về quê, một ngày nọ đi chơi xa, vào tận trong hang núi sau đó liền mất tích. Từ hồi ấy đến nay khéo có đến ba trăm năm rồi.

Nghe xong chuyện thì lúc này Từ Thức mới được thấm thía những lời nói lúc trước của vợ mình. Chàng đứng lại nơi gốc đa hồi trước mình trồng ở đầu ngõ giờ đã thành một cây cổ thụ to lớn, cành lá thì rườm rà, còn có những chùm rễ buông xuống chi chít cả, lòng chàng đầy bùi ngùi. Cả đám đông xúm lại vây chung quanh chàng, nhưng chàng chỉ biết thẫn thờ im lặng. Cuối cùng chàng cũng quyết định trở lại nơi xe mây, nhưng không ngờ rằng nó đã biến mất tự khi nào không hay. Chàng buồn rầu vô cùng, lại khăn gói mà lần mò tới nơi cửa Thần Phù, vốn định tìm lối hang cũ đưa mình tới động tiên năm nào nhưng nơi này bây giờ đã mịt mù toàn cây với đá, không thể nào tìm ra đường nữa. Chàng cứ đi mãi, đi mãi, sau này cũng chẳng biết là đi tới nơi nào. Kể từ ngày ấy người ta gọi hang núi nơi này là động Từ Thức để tưởng nhớ chàng.

Truyện cổ tích Việt Nam: Hai bảy mười ba

Ngày xửa ngày xưa tại huyện Hà Đông, tỉnh Quảng có một đôi vợ chồng nọ, người chồng vốn có thói quen lấn lướt vợ của mình, nhưng mà người vợ cũng chẳng phải là tay vừa.

Vào một ngày kia nhà họ có đám giỗ. Người vợ liền nấu một nồi chè làm đồ cúng. Khi nấu chè xong thì người vợ mới đem bát đến chia đều ra. Nhưng bởi vì mâm dưới bếp vẫn đang bận rộn nên người vợ đành phải bưng hai tay hai bát đem lên cho người chồng xếp lên trên bàn thờ. Người vợ cứ bưng lên lần lượt như vậy, phải đi lại đúng bảy lần mới hết số bát chè dưới bếp. Người vợ cứ lầm bẩm trong miệng:

– Bưng bảy chuyến, thế là tổng có mười bốn bát chè.

Người chồng ở trên nhà cứ xếp tới rồi lại xếp lui có mấy cái bát chè cho nó vừa hết trong lòng cái mâm cúng đặt trên bàn thờ. Nhưng xếp mãi cuối cùng vẫn thấy thừa ra một bát chè, dù đổi mấy kiểu xếp khác cũng vẫn không vừa được. Người chồng bụng liền bảo dạ rằng:

– Giờ lẽ nào lại đem nó đặt lẻ bên ngoài mâm sao? Hay thôi đi, sẵn tiện đang vắng vẻ, cũng chả ai để ý cả, ta cứ nếm thử xem sao, vợ mình chắc chẳng đếm thử đâu mà lo.

Yên tâm là như vậy nên nhân dịp người vợ vẫn đang bận loay hoay ở sau nhà, người chồng đem bát chè thừa cầm ra phía sau bàn thờ rồi húp lấy húp để cho nhanh hết. Sau khi đã húp hết bát chè thì hắn đem cái bát ra ngoài bể cạn để rửa cho sạch, sau đó lại đi vào trong bếp mà cất cái bát đã rửa sạch vào trong rổ úp. Rồi lại trở vào nhà trên để mà làm nốt những công việc khác của mình.


Đến khi lễ cúng đã xong xuôi, khi đem mâm chè bưng xuống thì người vợ lại ngẩn ra vì đếm đi rồi đếm lại mấy lần mà vẫn cứ thấy thiếu mất một bát chè. Người vợ lại tự hỏi:

– Quái thật, chắc chồng ta đã ăn rồi, hay là khi xếp đã làm đổ mất một bát. Ta nhất định phải tìm ra lẽ mọi chuyện mới được.

Vì vậy người vợ mới đem chuyện hỏi chồng mình:

– Sao mà thiếu mất một bát chè thế này?

Người chồng cố làm ra vẻ như tự nhiên lắm mà nói:

– Ủa, làm sao tôi biết được. Mình bê lên từng nào thì tôi cũng bày ra từng ấy thôi.

Người vợ liền phân trần:

– Lúc bưng tôi bưng đúng bảy lần, mỗi lần tôi bưng hai bát, vậy là hai bảy người bốn mới đúng. Đầu đuôi chính là vậy. Nhưng bây giờ tại sao lại chỉ còn có mười ba bát?

Người chồng cũng không hề nghĩ rằng người vợ đã đếm số bát chè như thế, nhưng lại nghĩ chẳng lẽ vừa chối xong giờ lại nhận mình ăn thì đúng là ngượng lắm. Lại tự nhủ: “Thực ra thì nhận là mình ăn cũng chả làm sao, nhưng nếu nhận thì nên nhận từ lúc đầu, chứ bây giờ nhận thì muộn quá rồi”. Vì vậy người chồng lập tức làm ra khuôn mặt tức giận:

– Tôi thì biết đâu được cơ chứ? Hay là mình lại nghi rằng tôi ăn bát chè ấy chăng?

Người vợ cũng không nhịn được nữa:

– Còn ai vào đây nữa. Lúc ấy trong nhà chỉ có mình với tôi thôi, con cũng đi vắng rồi. Chứ không thì ai lại vào đây để mà nuốt trộm bát chè cúng nhà mình?

Nghe vợ nói đến đây thì người chồng cũng đỏ mặt tía tai, rồi sừng sộ quát lớn:

– Mày đổ cho tao ăn, vậy mày có tang chứng không hả? À, quân này thế mà láo!

Nói đoạn người chồng liền sấn vào chỗ vợ. Nhưng người vợ cũng nhất định không chịu xuống nước, vẫn nhất quyết mà đổ riệt người chồng là ăn vụng bát chè. Không ai chịu nhường ai dẫn đến vợ chồng xô xát, kéo theo hậu quả là mâm bát đều đổ vỡ hết, bàn ghế thì cái siêu cái vẹo. Cũng bởi vì thế mà bữa giỗ mất ngon, hơn nữa còn kéo theo đủ thứ thiệt hại khác nữa.

Rõ ràng là nắm chắc trong tay phần đúng rồi nhưng người vợ lại không nghĩ được tại sao lại ra kết quả này, vừa đau thân lại vừa giận đời nên người vợ chẳng chần chừ, lập tức đưa đơn kiện trình quan.

Biết vợ đâm đơn kiện, người chồng lúc đầu hung hăng bao nhiêu thì bây giờ lại lo sợ bấy nhiêu. Hắn thầm nghĩ:

– Nếu như nó làm to chuyện này ra thì mình không chỉ xấu hổ với bà con láng giềng, mà sau này cũng sẽ khó mà ăn nói với con cái mình nữa!

Vì thế hắn đem theo lễ vật tới chỗ quan phủ xin lót để quan giúp mình gỡ để đỡ mất mặt. Quan thấy lễ vật của người chồng rất hậu hĩnh, lập tức gật gù mà đáp ứng:

– Được! Được! Cứ để ta, ta sẽ lo êm thắm cho!

Ngày ra công đường, quan nghe nguyên cáo trình bày lại đầu đuôi câu chuyện mới phán rằng:

– Giỗ này là giỗ của ông của nhà nó, chẳng lẽ nó lại dám thất lễ trước mắt ông bà nó à. Hơn nữa thì hai bảy đâu nhất định sẽ bằng mười bốn đâu, nhiều khi hai bảy cũng chỉ có mười ba thôi. Đây, hãy nhìn lên trên những đường đòn tay ở trên mái công đường kia xem. Mái trước có bảy đường nhé, mái sau cũng có bảy đường nhé. Nhưng mà hai bảy lại chỉ có mười ba mà thôi. Đấy, cả chồng lẫn vợ đều mở to mắt ra mà đếm xem có phải là hai bảy người ba không nào?

Cả hai vợ chồng đều ngửa mặt lên nhìn xem. Người chồng lúc này cũng phải chịu rằng quan tài thật. Tuy nhiên thì người vợ vẫn muốn cãi. Quan liền đập bàn mà quát:

– Thánh nhân đã bảo: “Phu xướng phụ tùy”. Hai vợ chồng chúng mày mau mau đem nhau về mà ăn ở thuận hòa với nhau đi, đừng có mà động tí lại bày chuyện kiện tụng lung tung khiến khắp thiên hạ người ta chê cười. Lần này thì ta tha, nhưng nếu có lần sau thì ta sẽ phạt thật nặng đấy.

Sau đó quan lập tức lệnh cho lính đem cả hai vợ chồng nhà đó đuổi ra khỏi nơi công đường thiêng liêng.

Lúc trở về nhà thì bà con làng trên xóm dưới đều nhiệt tình tới thăm hỏi. Đúng lúc người chồng đang hăng say khoa chân múa tay trông có vẻ như thích thú lắm, thì người vợ đột nhiên than thở:

Nực cười ông huyện Hà Đông,

Xử vị lòng chồng hai bảy mười ba.

Không nghe tan cửa hại nhà,

Nghe thì hai bảy mười ba cực lòng.

Sau này người ta có câu tục ngữ sau: “Cha mẹ nói oan, quan nói hiếp, chồng có nghiệm nói thừa” chính là từ câu truyện trên mà có.

Truyện cổ tích Việt Nam: Làm cho công chúa nói được

Ngày xửa ngày xưa ở nước nọ có nàng công chúa con gái một ông vua nổi tiếng vì nhan sắc vô cùng xinh đẹp, tuy nhiên lại có điều rất đặc biệt là nàng công chúa này lại rất ít điều và ít lời, bình thường lời nói cũng rất hà tiện. Chỉ trừ những trường hợp thật sự cần thiết, chứ rất ít khi nàng chịu chủ động nói chuyện với ai.

Ngày kia, khi công chúa đến tuổi phải lấy chồng thì nhà vua lập tức cho dán niêm yết ở khắp mọi nơi, người cho phép tất cả những chàng trai ở trong nước, dù cho là người sang hoặc là kẻ hèn, dù là ở nông thôn hay sinh sống nơi thành thị, chỉ cần người nào có thể làm cho công chúa con gái mình có thể nói ba câu, người lập tức sẽ chọn người đó làm phò mã. Tuy nhiên trong vòng một ngày không thể làm xong thì sẽ phải chịu đánh đủ một trăm trượng rồi đuổi về.


Tin tức nhà vua kén rể ngay lập tức được loan truyền đi khắp các ngõ ngách trong đất nước, từ khắp nơi có không biết bao nhiêu chàng trai tới để thử vận may. Trong số những người đến xin được thử thách cũng không thiếu những vương tôn công tử, tuy nhiên thì kết quả đều là thất bại, cuối cùng còn phải nhận một trận đòn đau đến thịt nát máu rơi rồi ra về. Cũng bởi vì thế mà nhiều năm qua đi hoàng gia vẫn không tuyển được phò mã nào ưng ý.

Vào một ngày kia, từ đâu xuất hiện một chàng trai khá trẻ tuổi, nhìn bề ngoài có vẻ rất khốn khổ, trông cũng khá là ngốc nghếch, chàng tên Mồ Côi. Chàng tới cổng hoàng thành để xin vào thử thách . Nhưng vì nhìn vẻ ngoài chàng lôi thôi lếch thếch quá nên bọn lính canh đều không muốn để chàng vào. Tuy nhiên thì niêm yết đã dán, y lệnh nhà vua, chúng đành phải chấp nhận cho chàng vào trong.
Theo lệ thường, có người đến dẫn chàng Mồ Côi vào trong hoàng cung, sau khi để cho chàng đọc kỹ tờ niêm yết mới để cho chàng ở lại sân ngay trước lầu của nàng công chúa. Bọn họ cũng sẽ cho người đến báo tin cho công chúa để nàng biết đường chuẩn bị. Cùng lúc đó cũng có một nhóm quan lại đã được cắt đặt sẵn tới ngồi nghiêm chỉnh phía sau màn, nhiệm vụ chính là theo dõi và chứng thực chuyện công chúa nói chuyện hay là không.

Sự việc diễn ra như sau. Buổi sáng ngày ấy thì người ta trông thấy Mồ Côi vào trong sân, chàng không hề có ý định nghĩ cách để tiếp xúc cùng công chúa, mà chỉ chăm chú lo cho bữa cơm trưa của bản thân. Chàng đi khắp nơi hỏi mượn nồi, rồi lại đi xin củi, sau đó thì vo gạo, rồi tìm lấy mấy hòn đá để kê bếp ngay bên thềm. Tuy nhiên chàng chỉ nhặt hai hòn đá kê làm bếp, nhưng vì đít nồi tròn khiến cho nồi đặt lên đều bị đổ, liên tiếp mấy lần. Mỗi một lần nồi bị đổ, Mồ Côi vẫn không nản, chàng kiên nhẫn chỉnh sửa lại vị trí của hòn đá rồi lại đặt nồi lên, nhưng dù cho chàng có sửa soạn bao nhiêu thì lúc đặt nồi lên trên nó cũng cứ chông chênh chực đổ.

Lúc ấy công chúa cũng đang ngồi phía trên lầu mà nhìn xuống phía dưới, khi trông thấy chàng trai kia cứ loay hoay không ngừng cùng hai hòn đá, đặt bao nhiêu lần cũng không có lần nào cái nồi được vững cả. Nàng cứ nhìn, nhìn mãi rồi cũng cảm thấy rất bực mình. Khi thấy cái nồi kia lại nghiêng nghiêng chuẩn bị đổ thì nàng liền nói chõ xuống dưới:

– Tìm thêm một hòn đá nữa rồi kê!

Nghe thấy công chúa nói, Mồ Côi nghe lời, cũng chẳng nói chẳng rằng mà đi tìm thêm hòn đá nữa về kê, lúc này chàng đặt nồi lên mới được vững. Rồi chàng đem bỏ gạo đã vo sạch vào trong nồi, tiếp theo thì đánh đá lửa. Nhưng chàng cứ đánh đi rồi đánh lại không biết bao nhiêu lần nhưng vẫn không thể được. Bởi vì chàng cứ đặt bùi nhùi lên trên đá, vì thế nên tia lửa có bật ra cũng không thể nào mà bén vào bùi nhùi được. Chàng cứ ngồi đó đánh đá lửa đến no nê rồi chán chê thì vẫn chẳng ăn thua, bởi vì cứ mỗi lần không đánh được lửa, chàng chỉ chăm chăm đem hòn đá sửa soạn chứ không hề soạn lại bùi nhùi.

Từ trên lầu trông xuống, nàng công chúa cũng cảm thấy sốt hết cả ruột, vào lần đánh thứ mấy mươi rồi, nàng không nhịn được mà lại chõ xuống nói:

– Mau đặt bùi nhùi kia xuống bên dưới!

Mồ côi hệt như một cái máy, nghe lời của công chúa, đem vị trí của chỗ bùi nhùi kia chỉnh lại, quả nhiên khi đã đổi vị trí, chàng thử đánh lửa lại thì thấy nó bén ngay. Chàng cũng chẳng thèm mở miệng nói lời nào, cảm ơn cũng không có, vẫn cứ cặm cụi mà làm tiếp công việc nấu ăn của mình thôi. Sau một thời gian thì cơm và canh cũng đã chín cả, Mồ Côi tiện bếp nấu luôn một ấm nước chè nữa.

Khi thấy nước đã sôi, chỉ còn lại việc rót nước ấy từ trong ấm vào trong cái bầu nậm chàng thường hay mang theo bên mình. Miệng của cái bầu nậm khá bé, còn miệng ấm lại rất rộng, bởi vậy nên chàng rót nước toàn bị chảy ra ngoài. Chàng lại cố gắng sửa soạn tránh nước chè bị đổ ra cho khỏi lãng phí, tuy nhiên thì lần nào thử cũng đều mất công, mà nước chè thì vẫn cứ lênh láng hết ra bên ngoài. Nhìn thấy, công chúa cũng bực mình lắm mới nói:

– Đem một chiếc đũa mà đặt vào đấy!

Và Mồ Côi cũng cúi đầu mà làm theo lời công chúa. Quả nhiên là nước chè cứ theo đầu chiếc đũa mà chảy gọn vào trong bầu nậm. Lúc bấy giờ thì vị quan có nhiệm vụ theo dõi sự việc liền tới bẩm báo lại cho nhà vua, quan tâu:

– Muôn tâu bệ hạ. Hạ thần ghi chép đã xong, công chúa quả đã nói với chàng trai trẻ tuổi kia đến lần thứ ba rồi!

Nhà vua vô cùng ngạc nhiên, lập tức hạ lệnh cho người dẫn Mồ Côi đến để xem mặt. Nhưng lúc thấy chàng cả người ăn mặc thì lôi thôi, lếch thếch thì người lại không hài lòng lắm. Tuy nhiên nghĩ tới việc có không biết bao nhiêu người tới để làm con gái mình nói chuyện không được, mà người này có thể thông qua thì chắc cũng phải có được tài năng gì xuất chúng lắm. Hơn nữa, làm một ông vua thì không cho phép được hai lời, cuối cùng nhà vua cũng quyết định đồng ý cho Mồ Côi lấy công chúa con gái mình.

Truyện cổ tích Việt Nam: Rủ nhau đi kiếm mật ong

Ở vùng nọ có hai người tên là Ngốc và Bự, cả hai đều không ai chịu thua kém ai về sự ngu đần. Tuy nhiên thì Bự vẫn luôn tự cho rằng bản thân khôn hơn là Ngốc nhiều. Một ngày nọ khi nghe được người ta bảo nhau rằng đi kiếm mật ong thì vừa có thể được ăn, lại vừa có thể bán mà lấy tiền, vì vậy hai người liền rủ nhau thử đi một chuyến xem thế nào. Nhưng mà cả hai đều quên không hỏi việc đi hướng nào sẽ tìm được tổ ong. Sau khi suy đi ngẫm lại hồi lâu thì Bự tỏ ra thạo lắm bảo với Ngốc là:

– Mày ạ! Theo như tao biết thì mật là một chất có nước, nếu vậy thì lên rừng làm sao mà có được, chúng ta phải xuống dưới nước mà tìm thì mới có chứ!

Ngốc cũng chẳng chối chẳng cãi gì, nghe Bự nói thế thì gật đầu theo ngay. Hai người lập tức lấy thuyền rồi chèo đi. Chèo thuyền đi mãi, mấy ngày liền nhưng chẳng tìm thấy cái tổ ong nào cả. Đến ngày thứ ba lúc trời đã bắt đầu tối thì hai người mới cắm thuyền ngay bên bờ sông để mà nghỉ ngơi lấy sức. Sáng ngày hôm sau thức dậy thì cả hai trông thấy ở dưới nước xuất hiện một tổ ong vô cùng lớn. Bự vui vẻ vỗ vào vai Ngốc mà nói:

– Đấy, mày thấy tao có nói sai bao giờ đâu. Nếu mà lấy được cái tổ ong này thì chúng ta vừa được ăn no, lại còn bán đi được khối tiền nữa, cũng bõ công mấy ngày nay chúng ta vất vả đi tìm. Mày thì giỏi lặn hơn tao thì nhảy xuống tìm nó đi!

Nghe lời Bự, Ngốc cởi áo để trên thuyền rồi nhảy tùm xuống dưới nước. Nhưng mà Ngốc cứ lặn mãi, lặn đến mức hai mắt đều đỏ ngầu cả nhưng vẫn chẳng tìm được gì cả. Nhìn thấy Ngốc ngoi lên với tay không thì Bự lại chỉ tay xuống dưới nước mà bảo:

– Mày nhìn ong nhiều thế sao mày lại chẳng lấy được chút gì thế hả. Cái giống ong là chúng nó hay bay lắm, mày phải lặn xuống lâu lâu mới được chứ!

Và chàng Ngốc lại lặn xuống lần nữa, tìm tòi dưới nước một lúc lâu lại trồi lên, nhưng vẫn lên tay không. Bự thấy Ngốc chẳng tìm được gì thì suy nghĩ một lúc lâu, sau đó đột nhiên reo lên:

– Bởi vì lần nào mày cũng vội vàng lên mới chẳng tìm được gì đấy. Cái giống ong ấy mà phải mất công mới tìm được cơ. Sẵn đây có nạng, tao lấy nó rồi ghìm mày dưới đấy thật lâu, có thế thì mày mới có thể tìm được.

Lần này Ngốc lại lặn xuống dưới nước, còn Bự ở trên thuyền thì cầm theo nạng để mà đè Ngốc xuống. Bự cứ cố dùng sức mà đè Ngốc gần nửa buổi, sau đó mới thả nạng ra nhưng mà Ngốc thì chết nhăn răng tự bao giờ không hay. Nhìn thấy xác của Ngốc nổi lềnh phềnh trên mặt nước thì Bự lại cứ ngỡ là Ngốc còn sống nên mới mắng to:

– Cái thằng Ngốc tham lam kia, đã ăn được một bụng mật dưới đấy bây giờ còn nhăn răng ra cười à.

Đúng lúc ấy có chiếc thuyền chèo ngang qua đó, mấy người lái thuyền trông thấy một cái xác đang nổi bập bềnh thì bảo Bự là:

– Cái thằng kia chết rồi, mày sao không đem đi chôn đi, cứ để như thế thì thối hoắc ai mà chịu cho nổi.

Nghe người ta nói vậy thì Bự mới biết là Ngốc chết thật rồi, bèn đem xác Ngốc lên trên bãi để đào lỗ mà chôn đi. Chôn xác Ngốc xong thì hắn liền trở về thuyền. Tự dưng thì hắn lại đánh một cái rắm. Lại thấy có mùi thôi thối loanh quanh, nhớ tới lời của đám lái thuyền khi nãy thì hắn trong bụng thầm nghĩ:

– Thật là thối quá mà! Vậy mình cũng chết rồi nên có mùi thối như thế. Thôi đành, ta lại phải tự chôn ta vậy, không thì người khác làm sao mà chịu được.

Nghĩ thế nên hắn liền trở lại bãi và tự đào cho mình một cái lỗ rồi tự chôn. Tuy nhiên khi mới chỉ bốc được có mấy nắm bùn để lấp lên trên đầu thì hắn lại cảm thấy vô cùng ngột ngạt và khó thở, vì thế lại ló đầu lên trên. Khi nhìn thấy có mấy chiếc thuyền đang qua lại ở ngay gần bãi thì Bự liền hét to:

– Này thuyền kia! Đi xê ra một tí, lỡ như đụng vào mả người ta thì lại thối hoắc không chịu được đâu đấy.

Nghe thấy Bự nói, đám trẻ đang cho đàn trâu của mình ăn ngay gần đấy không nhịn cười được nữa. Chúng nó liền hùa nhau cầm theo một cây roi mây lên bãi, tới gần chỗ Bự tự chôn mà quất tới tấp lên người Bự, chúng vừa quất lại vừa hô:

– Nào, để xem thử là sống hay là chết!

Vì bị lũ trẻ đánh đau quá nên Bự bật dậy khỏi hố chôn rồi cắm đầu cắm cổ mà chạy chối. Đang chạy thì Bự đột nhiên nghĩ ra mình đã chết rồi, sau đó lại nhờ có cây roi kia của đám trẻ trâu đánh cho mấy cái thì lại được sống lại. Bự nghĩ ngay cây roi ấy chắc chắn là có được phép thần thông rồi. Và cứ đinh ninh đó là một cây roi quý, và tự nhủ phải trở lại và xin bằng được cây roi ấy.


Bự lập tức chạy quay lại chỗ mấy đứa trẻ chăn trâu xin chúng cho mình cây roi mây vừa nãy. Nhưng mà lũ trẻ nhất định không chịu cho, Bự đã phải lạy lục chúng mãi thì chúng mới chịu vứt cho cây roi. Khi lấy được roi thì Bực mừng rỡ vô cùng, thầm nghĩ bản thân từ nay đã có được phép thuật giúp cải tử hồi sinh. Vậy là Bự đem theo roi mây lên đường với suy nghĩ đi khắp thiên hạ cứu chữa chúng sinh. Bự đi một quãng dài thì nhìn thấy phía trước có một đám ma. Bự làm vẻ mặt vô cùng nghiêm trang mà tiến đến đòi được gặp mặt tang chủ. Người ta đưa Bự tới gặp tang chủ của gia đình, Bự lập tức khoe khoang:

– Ta có được cây roi phép biết cải tử hồi sinh, cũng đã từng thí nghiệm qua thấy rất công hiệu. Vì vậy mấy ông mấy bà hãy đem áo quan mở ra, rồi ta sẽ giúp cho người chết được sống lại, trở lại nhà mà làm ăn.

Khi nghe Bự tự tin tuyên bố như thế thì mọi người ở trong tang gia bấy giờ lập tức dừng tiếng khóc, sau khi im lặng thì họ đồng loạt quỳ sụp xuống mà lạy Bự, rồi đồng thanh hô vang:

– Nếu ngài thương cho mà giúp được cho cụ nhà tôi sống lại thì chúng tôi cũng cắn rơm cắn cỏ mà lạy ngài, đời này kiếp này cũng không bao giờ quên ơn của ngài.

Tang chủ lập tức cho đám ma hạ đòn và đặt xuống ngay đám đất vệ đường. Tất cả mọi người đều xúm cả lại mà nạy đinh đóng ván thiên lên. Sau đó thì cái xác được đem lột trần ra rồi đặt nằm sấp ngay trên ván y theo lệnh Bự nói. Rồi lúc này Bự mới thong thả mà tiến lại gần, giơ cây roi mây lên cao mà thẳng tay quất xuống cái xác kia, tay quất miệng hô:

– Để xem thử là sống hay là chết! Để xem thử là sống hay là chết!

Bự cứ thế quất, nhưng là đến roi thứ mười thì da thịt của xác chết đã văng tứ tung khắp nơi nhưng “ông cụ” thì vẫn chẳng thấy tỉnh lại gì cả. Đám con cháu cùng người thân thuộc của cái xác kia lập tức xông tới kẻ đấm người đá một trận tơi bời để trút giận, Bự ta bị đánh đến mức lăn ra mà chết giấc luôn.

Cô gái lừa thầy sãi, xã trưởng và ông quan huyện

Ngày xửa ngày xưa ở huyện nọ có chị gái đã góa chồng, được cái mặt mũi sáng sủa rất dễ coi, hơn nữa khá khôn ngoan và lanh lợi. Vì thấy có một đóa hoa xinh lại dễ hái dễ vin nên có rất nhiều anh chàng thường xuyên ngấp nghé. Và trong số đám người thường hay lui tới ấy còn có cả thầy sãi, xã trường cùng với quan huyện.

Cả ba người này đều dày công mà thả không biết bao nhiêu là lời ong bướm, rồi thì ai cũng cứ ngỡ rằng mình chính là người lọt được vào mắt xanh của cô gái góa chồng xinh đẹp kia. Nhưng thực ra thì cô nàng chả có chút gì gọi là tơ vương với cả ba người họ cả.


Chị góa thầm nghĩ: “Cả ba người này đều là những người có vai vế cả, nhà ta thì cũng đôi lần phải nhờ vả, không thể nào cứ hiên ngang mà cự tuyệt họ được”. Bởi nghĩ thế nên khi ba người đó tới thì chị ta vẫn cố gắng tiếp đãi ngọt ngào nhất có thể. Đối mặt với những cái liếc mắt mà đưa tình của bọn họ, hay là những câu nói bóng nói gió, tuy rằng không có vồ vập nhưng chị ta cũng chẳng tỏ ra mình thờ ơ với người nào cả. Vì thế nên càng khiến cho ba người kia ngỡ rằng cá cắn câu, vì thế mà càng ra sức mà theo đuổi hơn.

Nhưng mà sau cùng thì chị ta cũng bắt buộc phải tỏ rõ tình cảm cũng như thái độ của mình, cũng không thể suốt ngày giả lả rồi cho qua được nữa, đặc biệt là xã trưởng, vì hắn là một tay có quyền có thế ở trong làng, hơn nữa cũng gần đường lui tới vì vậy cứ luôn canh săn đón mãi.
Chị ta thầm nghĩ trong bụng: “Bọn này thực là đáng ghét mà, chúng cứ bám ta như đỉa đói ấy. Bây giờ phải nghĩ ra cách nào mà tóm một mẻ cả ba tên, không thể nào cứ kéo dài như thế này mãi”.

Vào một ngày nọ, khi chị ta không có việc gì làm ngồi ở nhà chơi thì đột nhiên thầy sãi từ đâu xuất hiện. Sau màn trầu nước chào hỏi thì thầy sãi cũng bắt đầu tỉ tê mà đòi cho được lấy một buổi để mà hẹn hò. Chị ta liền đáp lại ngay:

– Vậy là thầy sãi muốn gì đây, tối nay thầy thấy có được không thế?

Sãi ta nghe vậy thì như mở cờ ở trong bụng, vui vẻ ra mặt:

– Ô! Nếu được thế thì hay quá rồi! Nhưng có chắc không vậy?

– Chắc như là đinh đóng cột ấy chứ. Thầy nhớ canh một rồi đến chơi nhé!

Đợi cho thầy sãi đã về thì chị ta mới lật đật đi tìm xã trưởng, báo cho hắn biết muốn hẹn vào tối nay. Đương nhiên là xã trưởng sướng đến run người lên bởi vì cái lời mời đột ngột này rồi. Sau đó thì cũng đến lượt tên quan huyện, hắn phải gọi là ngập tràn niềm vui khi nghe chị ta báo cho mình lời hứa mà hắn đã đợi chờ từ bấy lâu nay.

Vào buổi đêm ngày hôm ấy, khi trăng cũng đã lặn thì thầy sãi mới lén lút tới nhà chị góa gọi cửa. Rất nhanh chị ta liền chạy ra mở cửa rồi mời thầy sãi vào trong nhà. Thầy sãi liền hỏi chị:

– Trong nhà này có người nào không?

Chị ta đáp lại ngay:

– Không có. Cả nhà thiếp đã đi vắng cả rồi!

Sãi ta cũng chỉ chờ có câu nói ấy thôi là bắt đầu giở thói lả lơi của mình. Khi thấy chị ta không có cự tuyệt mình thì sãi càng lấn tới làm già. Tuy nhiên thì giữa lúc mà sãi ta chuẩn bị lên giường rồi thì lại có tiếng gọi cửa vang lên. Tiếng gọi ấy có khác nào một gáo nước lạnh hắt thẳng vào lưng đâu, khiến cho sãi ta cầm cập run sợ. Chị góa lại làm bộ như ngạc nhiên lắm mà bảo:

– Tiếng ai nghe như là tiếng của thầy xã thế nhỉ? Chẳng biết là đêm hôm lại tới nơi này làm gì nữa?

Nghe chị ta nhắc tới xã trưởng thì sãi ta càng sợ hãi hơn nữa, lập tức kêu chị góa chỉ cho mình một chỗ kín đáo để mà nấp cho nhanh. Cuối cùng thì nghe theo lời chỉ của chị góa mà thầy sãi phải chui xuống dưới gầm giường, bởi vì nhà chị ta lại chẳng có cái cửa sau nào cả. Mọi chuyện đã đâu vào đấy rồi thì chị góa mới mở cửa để đón xã trưởng. Và sau màn chào hỏi và mời mọc dạo đầu, chị góa lúc này đột nhiên lại hỏi:

– Nhân tiện có thầy xã ở đây thiếp muốn hỏi chút việc.

Thấy chị ta ấp úng, xã trưởng cười bảo:

– Có việc gì thì cứ nói ra đi.

– Chả là thiếp phận đàn bà cũng chẳng biết đâu là phép vua hay lệ làng. Xin hỏi thầy xã là như thầy sãi ấy, nếu như bị phát hiện bỏ chùa đi ve gái thì sẽ bị xử lí như thế nào ạ?

Nghe chị ta hỏi thì xã trưởng lại cười hề hề rồi trả lời ngay:

– Ồ! Cái quân đó vốn là cái đồ trốn xâu lại lậu thuế, nếu như mà tóm được thì cứ đem chém quách đi cho rồi, chứ để lại làm chi nữa!

Xã trưởng cũng chẳng khác thầy sãi là bao, khi biết được trong nhà hiện giờ đang vắng vẻ thì cũng bắt đầu giở thói bài bây ra. Chị góa cũng chẳng tỏ vẻ gì là cự tuyệt cả. Câu chuyện đương đi đến bước mặn nồng thì bất thình lình tiếng gọi cửa lại vang lên. Xã trưởng nghe thấy tiếng gọi thì vô cùng thất kinh, bởi vì hắn đã nhận ra cái tiếng gọi ngoài kia chẳng ai khác mà chính là tiếng của quan huyện. Hắn sợ hãi mà kêu lên:

– Chết nỗi, không biết đêm hôm thì khuya khoắt mà quan lại mò tới đây để làm chi nữa? Biết làm thế nào bây giờ?

– Thầy xã chớ có lo. Cứ để thiếp tìm một chỗ cho thầy nấp tạm đã.

Sau cùng thì xã trưởng được chị góa đẩy vào trong buồng, liền vội vàng kiếm một góc khuất mà ngồi rúm ró trong ấy. Khi đã giải quyết xong, lúc này chị góa mới lại thong thả đi ra mở cửa mời quan huyện vào trong nhà. Sau màn mời trầu mời nước thì chị ta lại ngỏ lời muốn hỏi quan:

– Thiếp có chuyện này muốn hỏi quan một chút.

Quan huyện cũng rất hào phóng mà đáp ngay:

– À, có việc gì thì cứ nói.

– Bẩm quan là, nếu như bắt được thầy sãi đêm hôm mà bỏ chùa đi chơi gái sẽ bị xử vào tội gì ạ?

– Ồ! – Quan cười rồi trả lời: – Nếu như mà bắt được thì cứ đánh năm roi, hay mười roi, sau đó thì bắt phạt xâu như với dân sự thôi!

Quan huyện vừa dứt lời thì thầy sãi vội vàng bò ra từ bên dưới gầm giường, sãi ta lóp nga lóp ngóp bò tới chân quan huyện mà lạy, vừa lạy lại vừa kêu:

– Bẩm quan lớn, ngài quả thật là minh lắm, không như cái anh xã đang nấp trong kia thì quả thực quá tay mà. Tội có như thế thôi mà anh ấy lại muốn đem xử chém.

Truyện cổ tích Việt Nam: Hòa thượng và người thợ giày

Ở làng Bích Khê thuở trước có một ngôi chùa lớn, sư trụ trì ở đó tên là Diệu Kế. Sư trụ trì này tuy ít chữ nhưng lại được cái rất sáng dạ, sau khi trải qua khoảng thời gian dài cạo đầu theo sau các nhà tu hành nên cũng võ vẽ chút ít kinh kệ. Vì sống lâu cũng trở thành lão làng, hơn nữa cũng chuyên cần mà tụng kinh gõ mõ, vì thế mà chẳng mấy chốc đã được lên trên hàng sư bác.

Kể từ đó thì Diệu Kế được cả dân làng ở cùng này cùng mấy vùng khác xung quanh tới đón về để thờ Phật và cai quản những chúng tăng khác của chùa. Và qua rất nhiều lần Diệu Kế ăn mày lộc Phật ở nhiều chùa khác nhau cũng đã nắm được chân lý là: cuộc đời tu hành cũng chỉ là một trong số những cách mưu sinh trong cuộc đời mà thôi. Nếu vậy thì tội gì mà phải tuân theo “năm điều răn” để cho mình mệt xác.

Chính vì vậy, nếu xét về mặt đức hạnh thì Diệu Kế tuy rằng không phải là dạng hổ mang gì nhưng cũng chẳng thuộc vào hàng chân tu. Thi thoảng thì sư ta lại lén lén lút lút mà ăn bớt tiền nhang đèn, tiền quyên góp của khách thập phương ngộn lên ở trên tráp.

Ngày ấy ở gần chùa có người thợ giày trạc tuổi, cũng cùng khổ mặt và khổ người với sư Diệu Kế. Rồi thì hai người cứ dần dần mà quen biết nhau, sau đó thì trở thành đôi bạn thân nối khố. Đến ngày hai người đã tương đắc với nhau thì người thợ giày hay đem theo rượu thịt tới tăng phòng trong những phút vắng vẻ, sau đó thì hai người cùng đóng cửa lại với nhau rồi thì chén thù chén tạc. Và họ lại tỉ tê mà kể cho nhau nghe rất nhiều câu chuyện xa ngoài cả mảnh vườn cùng mái chùa của nhà Phật.


Người thợ giày này được cái vô cùng am hiểu chuyện đời, vì thế nên Diệu Kế rất thích nói chuyện cùng. Cứ khi nào ông bạn mình túng thiếu quá thì Diệu Kế lại phóng tay mà chu cấp cho bạn, lúc thì ba quan, khi lại năm quan chẳng tiếc gì.

Tuy rằng là Diệu Kế chẳng bao giờ làm xao nhãng chuyện gõ mõ tụng kinh, nhưng là bọn hào lý ở trong làng cũng có không ít kẻ ganh ghét, khó chịu. Họ nghi ngờ rằng trong chuyện kinh kệ thì vốn liếng của Diệu Kế cũng chẳng có được bao nhiêu. Hơn nữa thì mỗi lần mà sư tụng kinh thì cũng chỉ thấy sư cứ ê ê a a hết cả một buổi, sau lại điểm thêm vào những câu chữ khá lạc lõng mà tựa như chẳng có liên quan gì tới kinh Phật cả. Mặc dù là nghi ngờ như vậy nhưng vì bọn họ cũng chả hay biết gì về tiếng kinh, mà câu kệ bên trong cũng rất là khó hiểu, vậy nên chẳng có cách nào mà tìm ra được sự thật cả.

Lúc bấy giờ có ngôi chùa ở phương Nam nổi tiếng với vị hòa thượng có đạo học cũng như đức hạnh rất cao. Vị hòa thượng ấy nghe nói đã tu luyện trong nhiều năm, còn từng sang tận bên đất thánh nữa. Hiện thời thì vị hòa thượng ấy đã được nhà vua ban cho tước quốc sư đương triều, còn cấp phép cho đi đến tham quan tất cả những cảnh chùa ở trong nước nữa. Tuy rằng tuổi đã già, vị hòa thượng vẫn luôn ăn chay và nằm đất, tuy nhiên lại có một điều vô cùng đặc biệt đó là thuộc vào phái vô ngôn, bởi vậy nên người nhất thiết không mở miệng nói chuyện với bất kì ai, chỉ khi nào thực sự cần thiết lắm thì người mới làm dấu ra hiệu, hoặc là viết lại những suy nghĩ, những lời mình muốn nói vào giấy thôi.

Khi nghe được tin rằng bậc đại đức kia sắp quá tới làng mình thì cả đám hào lý ở làng Bích Khê lập tức sửa soạn chuẩn bị một lễ đón rước rất long trọng tại chùa, định nhân tiện mà nhờ vị hòa thượng ấy kiểm tra đạo học của sư trụ trì Diệu Kế. Nếu như mối nghi ngờ bao lâu nay là đúng thì họ định sẽ mời sư rời khỏi chùa này đi nơi khác.

Lúc được người báo tin đến thì Diệu Kế vô cùng lo lắng. Nếu như cuộc khảo hạch diễn ra thì chắc chắn không thể nào mà giấu được cái dốt của mình nữa, dù cho có bị đuổi khỏi chùa này hay không thì sư cũng chẳng còn mặt mũi nào mà nhìn tất cả những thiện nam cùng tín nữ của mình nữa. Than ôi! Đến lúc ấy thì cũng chẳng còn những ngày sư ta được ngồi ung dung mà hưởng hoa lợi cùng bao nhiêu là tiền nhang đèn hương khói từ thập phương. Diệu Kế nghĩ vậy nên cố gắng vắt óc để tìm cho ra cách giải quyết tình huống khó khăn này. Và sư ta lại sực nhớ tới người bạn nối khố hay tự xưng mình là người túc trí đa mưu. Vì vậy sư liền nhắn mời bạn đến chùa cùng mình để bàn tính mọi sự. Người thợ giày sau khi nghe toàn bộ câu chuyện của Diệu Kế mới an ủi bạn:

– Tưởng chuyện gì chứ chuyện ấy thì bạn cứ để tôi lo liệu hết cho. Tôi đây sẽ thay bạn mà trả lời hết mấy cái câu hỏi khảo hạch của lão sư già ấy cho.

Thấy người thợ giày nói rất tự tin nhưng Diệu Kế vẫn còn lo lắng hỏi lại:

– Nhưng làm sao bạn thay tôi được chứ?

– Cái đấy càng đơn giản. Tôi và bạn trạc người như nhau, tôi sẽ lẻn đến kín đáo một chút vào đúng ngày mà lão sư già kia tới chùa. Sau chỉ cần bạn yêu cầu với bọn hào lý cho mình được đối diện cùng lão sư già kia trong tăng phòng kín, không cho phép người thứ ba được tham gia nữa là ổn thôi. Còn tôi sẽ nấp vào một chỗ, đến khi ấy chỉ cần bước ra và sắm vai bạn là xong. Tôi cam đoan với bạn sẽ chu toàn được mọi việc, đừng lo lắng gì cả!

Được người bạn thợ giày ấy hiến kế hay nên cũng giúp cho Diệu Kế phần nào vững tâm hơn. Vài ngày sau đó thì vị hòa thượng nổi tiếng kia quả nhiên có ghé ngang chùa theo như lời mời mọc của đám hào lý. Đồng thời cũng nhận lời giúp họ khảo hạch vị sư trụ trì của chùa.

Cửa của tăng phòng cài then thật chặt, ánh đèn le lói ánh sáng vàng yếu ớt, người thợ giày đã cạo trọc đầu, trên người là áo cà sa, bước ra từ bệ tiến lại ngay trước mặt của vị hòa thượng kia để nhận thử thách.

Khảo hạch chính thức bắt đầu. Nhưng vị đại đức chẳng hé răng nửa lời, chỉ thong thả mà đưa bàn tay phải lên sờ đầu của mình. Nhìn thấy thế thì người thợ giày lập tức co cẳng bên trái và đạp mạnh nền tăng phòng đánh cái “thịch”. Rồi sau đó vị đại đức ấy lại ngửa mặt nhìn trời một lúc lâu, sau đó đưa tay sờ nách. Người thợ giày thấy câu hỏi thì mới đưa cánh tay của mình quờ ra phía sau rồi đấm mấy cái vào lưng. Tiếp theo thì vị đại đức lại mỉm cười rồi giơ lên ba ngón tay lên trước mặt. Và người thợ giày lập tức trợn trong mắt rồi giơ năm ngón tay lên trời.

Sau ba câu hỏi thì vị đại đức kia không làm thêm dấu hiệu gì nữa, chỉ gật gù một chút rồi rời khỏi tăng phòng, còn người thợ giày thì lại vào chỗ nấp cũ của mình. Trước khi vị hòa thượng nổi tiếng kia rời khỏi làng Bích Khê thì có viết mấy lời vào giấy rồi trao lại cho đám hào lý trong làng, trong đó nói rất rõ ràng về kết quả khảo hạch. Đại ý viết là:

“Từ chốn thôn quê cho tới nơi thành thị, ta cũng chưa từng gặp được người nào mà có thể thông hiểu đến thâm thúy nghĩa lý của đạo Phật như là sư Diệu Kế. Sư ông không chỉ hiểu rõ được những dấu hiệu mà ta hỏi, mà còn có thể dùng dấu hiệu để mà trả lời, đối đáp cùng với ta, hệt như là những vế biến ngẫu rất tài tình vậy. Thoạt đầu thì ta muốn nói rằng: “Trong đầu luôn luôn phải tâm niệm những lời dạy cửa đức Thích Ca”, sư ông liền trả lời ngay: “Cần phải dẫm dưới chân mọi cám dỗ của Ma vương”. Rồi ta bảo: “Con hạc cắp những lời cầu nguyện dưới cánh để mang lên trên thượng giới”. Và sư ông lại đáp lại: “Con rùa thì ghé tấm lưng của mình mà đội bia đứng ở trước chùa”. Sau cùng thì ta giơ lên ba ngón tay ý nói tới “Tam quy”. Lúc ấy sư ông đã giơ lên cả bàn tay của mình để đối lại “Ngũ giới”. Những điều đó không phải là điều mà những kẻ có học đạo ở mức tầm thường có thể nhanh chóng trả lời ra được. Sư Diệu Kế chính là một trong những ngôi sao sáng hiếm có của rừng thiền chúng ta”.

Khi đọc xong những lời của vị hòa thượng thì cả đám hào lý ở làng Bích Khê đều cúi đầu từ giã với vị đại đức ấy. Sau đó thì kéo nhau trở lại chùa để xin được ra mắt nhà sư Diệu Kế. Cả đám hào lý đều hết lời mà xin lỗi sư:

– Chúng tôi đây đúng là toàn người trần mắt thịt cả, không hiểu được đạo học của nhà sư lại sâu rộng như là biển cả. Chỉ là do có vài người đem lời đơm đặt, nói xấu rồi thêu dệt nên những điều tiếng mà vu oan cho sư nên chúng tôi mới bất đắc dĩ phải nhờ tới bậc đại đức bày ra cuộc thử thách lần này với sư. Giờ đây thì mọi nghi ngờ trước đó đều đã tan biến hết cả. Mong là sư không chấp nhặt với lũ ngu độn như chúng tôi.

Đợi cho đám hào lý rời đi hết thì người thợ giày mới ra khỏi nơi ẩn nấp của mình. Sư Diệu Kế lập tức hỏi ngay:

– Bạn mau nói cho tôi biết xem bạn đã trả lời những câu hỏi của lão sư già ấy như thế nào mà lại làm cho danh tiếng của tôi trước đám hào lý đột nhiên nổi như cồn thế?

Người thợ giày liền đáp ngay:

– Cũng chẳng có gì. Ban đầu thì lão sư ấy chỉ tay lên đầu hỏi tôi là có biết làm mũ ni không? Tôi liền đạp mạnh chân dưới đất ý nói rằng mình chỉ chuyên nghề đóng giày, chứ không biết may mũ ni đâu. Sau đó thì lão sư ấy lại chỉ tay vào nách hỏi tôi xem có loại da nào mà mềm như da ở nách để mà thửa lấy một đôi. Tôi lại chỉ tay vào lưng mình để bảo với lão rằng gần đây thì chỉ có mấy thứ da dày như là da ở lưng thôi, nhưng mà nếu dùng để mà đóng giày thì cũng bền lắm. Sau cùng thì lão quyết định bảo tôi giúp lão thửa một đôi, nhưng lại mặc cả ba quan tiền. Tôi thì lại nhất định không chịu làm, muốn đòi đủ năm quan cơ. Thế rồi lão sư ấy bỏ đi luôn, chắc là do lão ấy bủn xỉn rồi chê tôi làm đắt nên không chịu thửa nữa.